MyLabel
Đường 17/8 Phường Minh Xuân - TP. Tuyên Quang
0207 3822.352
Email:tuyenquang@gso.gov.vn
Trang chủ
Văn bản pháp lý
Tin tức
Inforgraphics
Thư viện video
Thư viện ảnh
Liên hệ - Góp ý
Giới thiệu chung
Giới thiệu
Sơ đồ tổ chức
Lịch sử phát triển
Chức năng nhiệm vụ
TRIỂN KHAI CÔNG TÁC
Phòng Thống kê Tổng hợp
Phòng Thống kê Kinh tế
Phòng Thống kê Xã Hội
Phòng Thu thập Thông tin Thống kê
Phòng Tổ chức - Hành chính
TIN TỨC SỰ KIỆN
Tin hoạt động ngành
Hoạt động Chi bộ
Hoạt động Công đoàn
Tin địa phương
Hoạt động đoàn TNCS Hồ Chí Minh
THANH TRA THỐNG KÊ
Tin thanh tra
Văn bản thanh tra
Chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng với thống kê tỉnh thành phố trực thuộc TW
Chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng với DNNN, DN và dự án có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
BÁO CÁO TÌNH HÌNH KT-XH
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 1
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 2
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý I
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 4
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 5
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 7
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 8
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý III
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 10
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 11
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 12
KQ các cuộc điều tra
Tổng điều tra Dân số
Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp
Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và Thủy sản
Điều tra Vốn đầu tư
Điều tra Thương mại - Giá
Điều tra Công nghiệp - Xây dựng
Điều tra Cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể
Điều tra Doanh nghiệp
Điều tra dân số
Điều tra khảo sát mức sống dân cư
Điều tra lao động việc làm
Điều tra Nông nghiệp
Các cuộc điều tra khác
Lĩnh vực chuyên môn
Hệ thống chỉ tiêu thống kê
Qui trình ISO 9001:2015
Văn bản pháp lý
Quyết định số10/2020/QĐ-TTg Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đề án-312-QĐ-TTg
Nghị định số 94/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê
Nghị định số 95/2016/NĐ-CP Quy định về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
Nghị định số 97/2016/NĐ-CP Quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia
Quyết định số 54/2016/QĐ-TTg Ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
Luật Thống kê
Thông tư số 13/2019/TT-BKHĐT Quy định năm 2020 làm năm gốc để tính các chỉ tiêu thống kê theo giá so sánh
Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 15/11/2021 của Chính phủ bổ sung xử phạt trong lĩnh vực Thống kê
Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 về sủa đổi bổ sung Nghị định số 94/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 và Nghị định số 94/2022/NĐ-CP ngày 07/11/2022
Niêm giám thống kê
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến
15
Lượt truy cập
477685
IP của bạn 1
35.173.48.18
Trang chủ
»
Thông tin kinh tế xã hội
»
Chi tiết
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023 tỉnh Tuyên Quang
6/30/2023
Năm 2023, là năm giữa nhiệm kỳ, có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Với quyết tâm cao trong lãnh chỉ đạo và điều hành, căn cứ vào các Kết luận, Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Ngay từ đầu năm, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, sự điều hành tập trung, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp của Chính phủ về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2023; thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xanh và bền vững; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn, khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư được củng cố.
Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, kinh tế của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn còn chậm; hoạt động doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn thách thức, số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công còn đạt thấp; các nền kinh tế lớn trên thế giới suy giảm tăng trưởng làm cho các sản phẩm xuất khẩu hàng hóa chủ lực của tỉnh giảm, ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến tình trạng lao động bị giãn việc, giảm giờ làm, mất việc làm do doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng, thu hẹp sản xuất; việc tăng giá điện gần đây cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho đời sống người dân và hoạt động doanh nghiệp. Bên cạnh đó, giá thức ăn chăn nuôi diễn biến bất thường, trong khi đó giá gia súc liên tục giảm mạnh, đầu ra bấp bênh khiến người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh gặp không ít khó khăn trong việc tái đàn đã ảnh hưởng lớn đến việc phát triển chăn nuôi của người dân,...nhu cầu đầu tư phát triển trong tỉnh lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp.
Kết quả đạt được cụ thể ở các ngành, lĩnh vực như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023
1.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP trên địa bàn (giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm 2023
Tốc độ tăng trưởng GRDP (giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh tăng 7,55% so với cùng kỳ năm 2022, đây cũng là mức tăng trưởng tương đối ấn tượng trong bối cảnh kinh tế cả nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể như sau:
1.1.1. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,64%; đóng góp 1,22 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Ngành nông nghiệp mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài; giá các vật tư đầu vào liên tục tăng cao trong khi đó giá sản phẩm nông nghiệp, chăn nuôi lại rất bấp bênh, sản phẩm tiêu thụ chậm nhưng cũng đã vượt mọi khó khăn đạt mức tăng trưởng tương đối ấn tượng. Ngành chăn nuôi tăng 3,53%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 7,81%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 7,49%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm.
Để đạt được kết quả đó tỉnh đã triển khai các giải pháp chuyển đổi tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, đáp ứng theo nhu cầu của thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu,... nâng cao thu nhập và đời sống cho dân cư nông thôn, xây dựng nông nghiệp, nông thôn phát triển. Với trọng tâm là lấy phát triển kinh tế nông nghiệp là động lực tăng trưởng quan trọng, thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Sản lượng lương thực đạt trên 175.604 tấn, giảm 1,22% (giảm 2.164 tấn) so với cùng kỳ, trong đó: Lúa 113.634 tấn, giảm 0,87% (giảm 999 tấn); ngô 61.970 tấn, giảm 1,84% (giảm 1.164 tấn); khoai lang 10.347 tấn, giảm 5,27% (giảm 576 tấn); lạc 9.680 tấn, giảm 0,06% (giảm 6 tấn),… chuối 8.731 tấn, tăng 2,5% (tăng 212 tấn); xoài 907 tấn, tăng 2,76% (tăng 24 tấn); bưởi 5.362 tấn, tăng 1,67% (tăng 88 tấn); chè đạt 33.338 tấn, tăng 2,71% (tăng 880 tấn),… sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 47.758 tấn, tăng 5,48% (tăng 2.480 tấn); thủy sản ước đạt 5.189 tấn, tăng 8,1% (tăng 389 tấn); gỗ khai thác đạt 581.989 m3, tăng 6,94% (tăng 37.765 m3).
1.1.2. Khu vực Công nghiệp, xây dựng tiếp tục có nhiều tín hiệu khởi sắc và lấy lại đà tăng trưởng, tăng 10,87%, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung là 2,92% điểm phần trăm. Trong đó:
- Ngành công nghiệp, tăng 9,7%, với mức đóng góp 1,83 điểm phần trăm (trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,44%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; chế biến, chế tạo tăng 22,9%, đóng góp 2,66 điểm phần trăm; cung cấp nước tăng 14,96%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện giảm 14,93%, tăng trưởng âm 0,9 điểm phần trăm). Một số sản phẩm chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ như: Bột Felspat nghiền tăng 16,95%; giấy đế xuất khẩu tăng 22,46%; giấy in viết, photo thành phẩm tăng 23,42%; giày da tăng 6,12%; gỗ tinh chế tăng 5,96%; thép cây, thép cuộn tăng 28,64%,…
- Ngành xây dựng tăng 13,63%, đóng góp 1,09% điểm phần trăm trong khu vực. Với mục tiêu “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình, dự án trọng điểm có tác động liên vùng có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, an sinh xã hội như đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ, đường trục phát triển đô thị từ thành phố Tuyên Quang đến trung tâm huyện Yên Sơn, hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2023; đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường Chiêm Hóa – Na Hang, Trường THPT Tuyên Quang chuyên tại địa điểm mới. Hoàn thiện các thủ tục đầu tư, khởi công dự án đường cao tốc Tuyên Quang -Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Tuyên Quang; xây dựng đường từ khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến Quốc lộ 2D và đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ; dự án Đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh; dự án Flamingo Tân Trào; dự án điều chỉnh bổ sung quy hoạch di dân, tái định cư dự án thủy điện Tuyên Quang trên địa bàn tỉnh; dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2030 và các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội,...
1.1.3. Khu vực dịch vụ tăng 7,35%, đóng góp 3,14 điểm phần trăm. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm như sau: Bán buôn, bán lẻ và sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 9,32%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 16,07%, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; lưu trú và ăn uống tăng 19,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 10,6% , đóng góp 0,36 điểm phần trăm,…Trong 6 tháng đầu năm tỉnh đã tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch có tiềm năng phát triển như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch cộng đồng; tổ chức thành công các hoạt động khai mạc Năm du lịch và Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II năm 2023 và giải đua thuyền Kayak tỉnh Tuyên Quang mở rộng năm 2023,…
1.1.4. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 424 tỷ đồng tăng 6,6% (đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong bối cảnh dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội, tỉnh đã tập trung thực hiện có hiệu quả các chính sách về thuế như: Giảm thuế giá trị gia tăng, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng, dầu; gia hạn thời hạn nộp thuế và miễn giảm tiền thuế, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch Covid -19, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, nhất là với các lĩnh vực như quản lý xây dựng cơ bản, quản lý hộ kinh doanh cá thể, giao dịch chuyển nhượng bất động sản và kinh doanh xăng dầu,...
1.2. Quy mô và cơ cấu kinh tế
1.2.1. Quy mô tổng sản phẩm
Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2023 (giá hiện hành) ước đạt 20.180 tỷ đồng.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực với chiều hướng tăng dần tỷ trọng khu vực dịch vụ, cụ thể như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 5.020,1 tỷ đồng chiếm 24,88% (năm 2022 chiếm 26,68%); khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 5.841 tỷ đồng, chiếm 28,94%, (năm 2022 chiếm 27,23%), trong cơ cấu nội hàm ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng, giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo; khu vực dịch vụ ước đạt 8.491,6 tỷ đồng, chiếm 42,08% (năm 2022 chiếm 41,96%); thuế sản phầm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 827,2 tỷ đồng chiếm 4,1% (năm 2022 chiếm 4,13%).
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2023 các ngành: Công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng GRDP của toàn tỉnh, chứng tỏ cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch đúng hướng và tái cơ cấu kinh tế đang mang lại hiệu quả rõ rệt. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu tích cực phù hợp với yêu cầu thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tăng dần tỷ trọng dịch vụ góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm lực kinh tế của tỉnh.
2. Tài chính, ngân hàng
2.1. Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước
2.1.1. Thu ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện là 1.344 tỷ đồng, đạt 42% dự toán năm, giảm 1,86% so với cùng kỳ. Trong đó thu nội địa ước thực hiện là 1.295 tỷ đồng, đạt 40,98%, giảm 3,58%.
Một số khoản thu đạt khá là: Thu từ khu vực Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạt 97,5%, tăng 230,47%; thuế Thu nhập cá nhân, đạt 61,54%, tăng 15,65%; Thu từ phí, lệ phí đạt 48,05%, tăng 14,14%; các khoản thu về nhà đất đạt 45,25%, tăng 14,28%; hoạt động xổ số kiến thiết đạt 52,27%, tăng 10,42%; thu khác của ngân sách đạt 42%, tăng 25,37%; thu cố định tại xã tính cân đối đạt 70%, tăng 32,78%,…
Một số khoản thu thấp: Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước trung ương, đạt 32,29%, giảm 22,28%; Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước địa phương, đạt 31,43%, giảm 25,58%; Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 39,63%, giảm 7,55%; Thu từ thuế Bảo vệ môi trường đạt 22,38%, giảm 51,68%; Thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 57,14%, giảm 4,78%,...
- Một số nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến tiến độ dự toán:
+ Do tác động của các chính sách miễn giảm tiền thuế, tiền thuê đất nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp dẫn đến một số khoản thu thấp hơn so với cùng kỳ; ước giảm thu 6 tháng đầu năm 2023 trên 263 tỷ đồng,...
- Một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, dẫn đến số nộp ngân sách giảm so với cùng kỳ,...
+ Tiến độ thực hiện triển khai đấu giá quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất thuê còn chậm dẫn đến tiến độ thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất còn đạt thấp chưa đảm bảo theo dự toán.
2.1.2. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách nhà nước là 5.350 tỷ đồng, đạt 40,04% dự toán, giảm 4,56% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 1.042 tỷ đồng, đạt 70,47%, giảm 18,05%; chi thường xuyên 2.736 tỷ đồng, đạt 39,48%, tăng 8,16%; chi dự phòng ngân sách 65 tỷ đồng, đạt 38,67%, tăng 8,49%;...
Tỉnh đã tập trung điều hành dự toán ngân sách nhà nước chủ động, chặt chẽ, bảo đảm kỷ luật tài chính, ngân sách, an sinh xã hội, bảo đảm đúng dự toán được duyệt. Tăng cường công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước; tiếp tục thực hiện các chính sách, chế độ về đảm bảo an sinh xã hội. Triển khai kịp thời các chế độ, chính sách mới khi có văn bản hướng dẫn của các bộ ngành trung ương; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra tài chính để nâng cao một bước công tác quản lý tài chính trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp nhằm quản lý kinh phí, tài sản công chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu lực, hiệu quả.
2.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho dòng tiền tập trung vào các dự án trọng điểm, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực cần thiết, đặc biệt là nhanh chóng khôi phục kinh tế, trong đó thúc đẩy cho vay phát triển lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cơ sở hạ tầng, cho vay hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội,...
- Về hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động tại địa phương ước thực hiện là 28.500, so với cùng kỳ tăng 3.570 tỷ đồng (+14,3%); so với 31/12/2022 tăng 1.183 tỷ đồng (+4,3%).
- Về đầu tư tín dụng: Tổng dư nợ ước đạt 27.400 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 3.162 tỷ đồng (+13%); so với 31/12/2022 tăng 1.123 tỷ đồng (+4,3%). Trong đó: Dư nợ tín dụng thương mại 23.490 tỷ đồng, so với 31/12/2022 tăng 926 tỷ đồng (+4,1%); dư nợ tín dụng chính sách 3.910 tỷ đồng so với 31/12/2022 tăng 197 tỷ đồng (+5,3%).
- Chất lượng tín dụng: Nợ xấu của các Ngân hàng đến 30/6/2023 khoảng 200 tỷ đồng, chiếm 0,7% trên tổng dư nợ.
Các giải pháp tín dụng về tháo gỡ khó khăn cho khách hàng: Tính đến 31/5/2023, các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã hỗ trợ được 14 lượt khách hàng với số doanh số được hỗ trợ lãi suất đạt 2.144 tỷ đồng, số tiền lãi đã hỗ trợ cho khách hàng là 11,05 tỷ đồng.
3. Giá cả
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2023 tăng 0,49% so với tháng trước, tăng 3,76% so với cùng kỳ năm trước.
- Trong tháng có 6/11 nhóm hàng có chỉ số CPI tăng so với tháng trước, trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,53%. Trong đó, lương thực tăng 0,03%; thực phẩm tăng 2,1%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,27%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,75%, do thời tiết nắng nóng gay gắt với nhiệt độ cao, nhu cầu sử dụng các loại nước quả ép và nước uống tăng lực để bổ sung sức khỏe của người dân tăng đồng thời giá nguyên liệu đầu vào và giá vận chuyển tăng; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng nhẹ 0,21%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,21% do thời tiết nắng nóng gay gắt nên nhu cầu mua sắm các loại thiết bị làm mát như quạt điện, điều hòa của người dân tăng; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%; giao thông tăng 0,17% là do giá xăng, dầu điều chỉnh tăng theo quyết định điều chỉnh của Tập đoàn xăng dầu Việt Nam về giá bán lẻ xăng, dầu; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,27% do nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng.
Có 5/11 nhóm hàng giảm giá, cụ thể như sau: Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm nhẹ 0,31% do thời tiết nắng nóng nhu cầu mua sắm các loại vải, giầy dép và quần áo may sẵn của người dân giảm; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,12%, do nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt giảm, giá gas và các loại chất đốt giảm do nhu cầu tiêu thụ giảm xuống và lượng hàng tồn kho dồi dào, giá gas thế giới hạ nhiệt; bưu chính viễn thông giảm 0,02%; giáo dục giảm 0,02% do nhu cầu mua các loại văn phòng phẩm và đồ dùng giảm do học sinh các cấp đang bước vào kỳ nghỉ hè.
- Chỉ số giá vàng giảm 1,19% so với tháng trước, tăng 1,49% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,54% so với tháng 12 năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 chỉ số giá vàng giảm 2,35% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,15% so với tháng trước, tăng 1,37% so với cùng kỳ và giảm 1,04% so với tháng 12 năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,82% so với cùng kỳ năm trước.
- CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 4,44% so với cùng kỳ năm 2022. Một số nguyên nhân cơ bản đã tác động tăng CPI là những nguyên nhân chủ yếu sau: Nhóm giáo dục là nhóm tăng mạnh nhất với mức tăng 46,31% nguyên nhân chủ yếu là do thực hiện tăng học phí theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc tăng mức thu học phí, các khoản thu dịch vụ phục vụ và hỗ trợ hoạt động giáo dục từ năm học 2022-2023 trở đi tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên công lập trên địa bàn; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,21%, chủ yếu do nhóm hàng lương thực tăng 6% (do giá gạo tăng), thực phẩm tăng 7,7%, ăn uống ngoài gia đình giảm 2,42%; đồ uống và thuốc lá tăng 5,37%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,97%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,88%; thiết bị đồ dùng gia đình tăng 1,34%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,6%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,11%,…
4. Vốn đầu tư và xây dựng
4.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư
Để phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch Covid-19, Chính phủ xác định thúc đẩy đầu tư công là một trong những trụ cột chính, là động lực phát triển, có tác động lan tỏa tới các ngành, nghề lĩnh vực trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh đầu tư công vừa kích thích chi tiêu đầu tư công trong ngắn hạn để tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và là công cụ chủ yếu điều hành kinh tế vĩ mô và tạo ra các kết cấu hạ tầng phục vụ hiệu quả, lâu dài cho nền kinh tế.
4.1.1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Trong 6 tháng đầu năm 2023, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 6.502 tỷ đồng, tăng 17,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nguồn vốn từ khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng 21,91% trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, chứng tỏ nguồn vốn từ khu vực nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong tăng trưởng nguồn vốn đầu tư xã hội và là động lực chínhcho phục hồi và phát triển kinh tế, do Chính phủ đã dùng nhiều biện pháp thúc đẩy tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, tập trung vào cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm; nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 74,78% tổng nguồn vốn, chứng tỏ tình hình tình hình sản xuất kinh doanh của khu vực tư nhân có xu hướng chậm lại do tác động tiêu cực của dịch Covid-19 đến hoạt động của doanh nghiệp; dù vậy, với nguồn lực ngân sách còn hạn hẹp, để có đủ nguồn lực thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng ổn định, Chính phủ đã tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ, chiếm 0,73% trên tổng nguồn vốn,...
4.1.2. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
- Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện tháng 6 đạt 320 tỷ đồng, tăng 15,99% so với tháng trước; tăng 23,9% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 283 tỷ đồng, tăng 16,66%, tăng 23,57%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 35 tỷ đồng, tăng 11,53%, tăng 28,83%; vốn ngân sách cấp xã đạt 2 tỷ đồng, tăng 3,38%, giảm 5,29%.
- Ước thực hiện 6 tháng đạt 1.413 tỷ đồng, tăng 33,19% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 1.250 tỷ đồng, tăng 32,98%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 149 tỷ đồng, tăng 38,23%; vốn ngân sách cấp xã đạt 14 tỷ đồng, tăng 7%.
4.2. Xây dựng
Năm 2023, Tuyên Quang được giao tổng kế hoạch vốn đầu tư công là trên 4.490 tỷ đồng, trong đó: Vốn kế hoạch năm 2022 kéo dài sang năm 2023 là 1.314 tỷ đồng; nguồn vốn đã giao đến ngày 19/5/2023 là 3.176 tỷ đồng là nguồn vốn của 03 chương trình mục tiêu quốc gia; 2.430 tỷ đồng vốn thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, theo kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cho dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Tuyên Quang.
Tính đến ngày 19/5/2023, tổng số vốn đã giải ngân được trên 770 tỷ đồng, đạt 17,16% kế hoạch, nằm trong nhóm những tỉnh có kết quả giải ngân thấp của cả nước (ước giải ngân trung bình cả nước đến hết tháng 5/2023, đạt 22,2%), trong đó: Nguồn vốn kế hoạch năm 2023 giải ngân được 598 tỷ đồng; nguồn vốn năm 2022 kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2023 giải ngân được 172 tỷ đồng.
5. Hoạt động của doanh nghiệp
5.1. Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
- Tính đến thời điểm ngày 20/6 trong tháng toàn tỉnh có 19 doanh nghiệp thành lập mới trong tháng với số vốn đăng ký đạt trên 879 tỷ đồng, giảm 13,64% về số lượng, tổng số vốn đăng ký giảm 46,98% so với cùng kỳ; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp trên 13 tỷ đồng.
- Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2023, ước tính toàn tỉnh có 113 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 879 tỷ đồng, giảm 28,02% về số doanh nghiệp, số vốn đăng ký giảm 38,89% so với cùng kỳ, số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,8 tỷ đồng, giảm 15,09% so với cùng kỳ.
- Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 6 tháng là 67 doanh nghiệp, giảm 26,37% so với cùng kỳ. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.494 doanh nghiệp (bao gồm 11 doanh nghiệp nhà nước và 15 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với tổng số vốn đăng ký trên 28.347 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt trên 11 tỷ đồng.
- Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 127 doanh nghiệp, tăng 2,42% (tăng 03 doanh nghiệp so với cùng kỳ). Số doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể là 12 doanh nghiệp, giảm 01 doanh nghiệp so với cùng kỳ.
Nhìn chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm, trong khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lại tăng so với cùng kỳ. Nguyên nhân các doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể là sản xuất - kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn; sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm; giá xăng dầu liên tục biến động, chi phí logistics quá cao; lãi suất ngân hàng điều chỉnh tăng khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng từ 5 – 10%; sức chống chọi của các doanh nghiệp kém và đặc biệt là những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp,…
5.2. Tình hình xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo quý II năm 2023
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II năm 2023 cho thấy: 19,35% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm nay khả quan hơn quý trước; 58,06% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 22,58% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Chỉ số cân bằng của quý II năm 2023 so với quý I là -3,23%. Dự kiến xu hướng kinh doanh quý tiếp theo so với quý hiện tại năm 2023 cho thấy: Có 45,16% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên (trong đó có ngành: Sản xuất đường; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; sản xuất bột giấy, giấy và bìa; in, sao chép bản ghi các loại; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất xi măng, vôi, thạch cao; gia công cơ khí); 41,94% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định (trong đó có ngành: Sản xuất thực phẩm khác chưa được phân vào đâu; sản xuất trang phục; sản xuất giày dép; sản xuất các sản phẩm khác từ giấy, bìa chưa được phân vào đâu; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học); 12,9% số doanh nghiệp dự báo tiếp tục khó khăn hơn. Dự tính chỉ số cân bằng của quý tiếp theo so với quý hiện tại là 32,26%.
6. Kết quả tình hình sản xuất Nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023
6.1. Trồng trọt
6.1.1. Sản xuất vụ đông xuân năm 2023
Sản xuất Đông Xuân 2022-2023 thời tiết diễn biến phức tạp và khó lường, những đợt mưa lớn kèm theo rét lạnh xảy ra trên diện rộng ở thời điểm trước và trong tết Nguyên Đán đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất đầu vụ, nhiều loại cây trồng bị hư hại và chậm phát triển do mưa lạnh, tiến độ gieo trồng vụ Đông Xuân bị chậm lại. Ngành chức năng và chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, diện tích gieo cấy lúa được đảm bảo theo kế hoạch đề ra và theo đúng khung lịch thời vụ. Tuy nhiên, việc đảm bảo nguồn nước để phục vụ sản xuất còn gặp khá nhiều khó khăn, từ đầu vụ Đông đến nay, lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm; nhiều hồ chứa thủy lợi mực nước đã tụt xuống mức thấp hơn trung bình nhiều năm đây là những điều kiện bất lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Sơ bộ vụ đông xuân 2023 toàn tỉnh gieo trồng được 49.826 ha, tăng nhẹ 0,01% (tăng 3,51 ha) so với năm 2022, trong đó: Vụ xuân đạt 35.247 ha, tăng 0,03% (tăng 10 ha); vụ đông đạt 14.579 ha, giảm nhẹ 0,05% (giảm 7,29 ha). Cụ thể diện tích một số cây trồng chủ yếu như sau:
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng được 18.699 ha, giảm 1,52% (giảm 288,91 ha) so với vụ đông xuân năm 2022; năng suất lúa bình quân chung ước đạt 60,77 tạ/ha, tăng 0,66% (tăng 0,4 tạ/ha); sản lượng ước đạt 113.634 tấn, giảm 0,87% (giảm 999 tấn).
- Cây ngô: Trồng được 13.435 ha, giảm 1,38% (giảm 187,6 ha), giảm so với vụ đông xuân năm 2022, trong đó: Vụ xuân 8.043 ha, giảm 0,59% (giảm 48,08 ha); vụ đông 5.392 ha, giảm 2,52% (giảm 139,52 ha); năng suất ước đạt 46,13 tạ/ha, giảm 0,47% (giảm 0,22 tạ/ha) giảm chủ yếu ở vụ xuân), trong đó: Vụ xuân 46,5 tạ/ha, giảm 1,27% (giảm 0,6 tạ/ha); vụ đông 45,57 tạ/ha, tăng 0,7% (tăng 0,32 tạ/ha); sản lượng ước đạt 61.970 tấn, giảm 1,84% (giảm 1.164,77 tấn), trong đó: Vụ xuân đạt 37.399 tấn, giảm 1,85% (giảm 705,59 tấn); vụ đông đạt 24.571 tấn, giảm 1,84% (giảm 459,58 tấn).
- Cây khoai lang: Trồng được 1.654 ha, giảm 5,54% (giảm 97,06 ha) so với vụ đông xuân năm 2022, trong đó: vụ xuân 528 ha, giảm 9,01% (giảm 52,25 ha); vụ đông 1.126 ha, giảm 3,83% (giảm 44,81 ha); năng suất ước đạt 62,56 tạ/ha, tăng 0,29% (tăng 0,18 tạ/ha), trong đó: Vụ xuân 64,51 tạ/ha, tăng 0,3% (tăng 0,19 tạ/ha); vụ đông 61,65 tạ/ha, tăng 0,35% (tăng 0,21 tạ/ha); sản lượng ước đạt 10.347 tấn, giảm 5,27% (giảm 575,23 tấn), trong đó: Vụ xuân 3.404 tấn, giảm 8,74% (giảm 325,91 tấn); vụ đông đạt 6.943 tấn, giảm 3,49% (giảm 251,19 tấn).
- Cây đậu tương: Trồng được 150 ha, tăng 19,93% (tăng 24,97 ha), trong đó: Vụ xuân 93 ha, giảm 9,93%; vụ đông 57 ha; năng suất ước đạt 18,76 tạ/ha, giảm 2,75% (giảm 0,53 tạ/ha), trong đó: Vụ xuân 20,17 tạ/ha, tăng 2,25% (tăng 0,44 tạ/ha); vụ đông 16,49 tạ/ha; sản lượng đạt 282 tấn, tăng 16,64% (tăng 40,21 tấn), trong đó: Vụ xuân 187 tấn, giảm 7,6% (giảm 15 tấn), vụ đông đạt 95 tấn, tăng 146,66 % (tăng 56,29 tấn).
- Cây lạc: Trồng được 3.275 ha, giảm 1,03% (giảm 33,93 ha); năng suất ước đạt 29,56 tạ/ha, tăng 0,97% (tăng 0,28 tạ/ha); sản lượng đạt 9.680 tấn, giảm 0,06% (giảm 6,29 tấn).
6.1.2 Cây lâu năm
Diện tích cây chuối hiện có trên địa bàn tỉnh 2.232 ha tăng 1,11% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng ước đạt trên 8.731 tấn, tăng 2,5%; sản lượng chuối chủ yếu được tiêu thụ cho các thành phố lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thanh Hóa và các địa phương khác trong cả nước,… cây vải hiện có 316,59 ha, sản lượng thu hoạch ước đạt 1.773 tấn, tăng 1,57%.
Diện tích cây chè trên địa bàn tỉnh hiện có 8.289 ha, sản lượng thu hoạch đến ngày 15/5/2023 ước đạt 33.338 tấn, tăng 2,71% so với cùng kỳ.
Nhìn chung, mặc dù sản xuất cây trồng chính vụ đông xuân 2023 ở các địa phương trong tỉnh đã được triển khai gieo trồng trong khung thời vụ tốt nhất nhưng do ảnh hưởng cực đoan của thời tiết, thời tiết khô hạn kéo dài, diện tích gieo trồng giảm nên năng suất và sản lượng một số cây trồng chính giảm so với vụ đông xuân trước. Hơn nữa, do giá vật tư đầu vào cho sản xuất tăng cao, nhất là phân bón dẫn đến tăng giá thành sản xuất và giảm lợi nhuận của người nông dân.
6.1.3. Sản xuất vụ mùa năm 2023
Vụ mùa năm 2023, toàn tỉnh gieo cấy 24.568 ha lúa trong đó: Lúa lai 9.022 ha, lúa thuần 15.546 ha. Hiện nay, các địa phương trong tỉnh đang tập trung nhân lực, huy động máy móc, đẩy nhanh thu hoạch vụ xuân, với phương châm thu hoạch đến đâu làm đất gieo cấy vụ mùa đến đó, đẩy nhanh tiến độ sản xuất vụ mùa, bảo đảm khung thời vụ cho vụ đông sắp tới; tính đến ngày 15/6/2023 toàn tỉnh đã gieo được 324.970 kg mạ, toàn tỉnh đã cấy được 148,7 ha, tương đương 8.197,5 ha.
6.2. Về chăn nuôi
6.2.1. Về số lượng đàn gia súc, gia cầm
Đàn trâu tổng đàn ước đạt 90.124 con, giảm 0,26% (giảm 323 con) so với cùng kỳ năm 2022; đàn bò 39.646 con, tăng 3,19% (tăng 1.226 con); đàn lợn 562.448 con, tăng 1,11% (tăng 6.150 con); đàn gia cầm 7.022,88 nghìn con, tăng 2,83% (tăng 193,19 nghìn con).
6.2.2. Về sản phẩm đàn gia súc, gia cầm
Đàn trâu sản lượng đạt 3.787 tấn, tăng 6,21% (tăng 221,36 tấn) so với cùng kỳ năm 2022; đàn bò 1.239 tấn, tăng 7,83% (tăng 90,72 tấn); đàn lợn 32.755 tấn, tăng 5,23% (tăng 1.628,36 tấn); đàn gia cầm 9.533 tấn, tăng 5,89% (tăng 525,55 tấn).
Đánh giá chung, tình hình chăn nuôi trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh nhìn chung ổn định, không có biến động lớn về dịch bệnh. Các địa phương chủ động triển khai các hoạt động phòng, chống và giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh; đàn trâu tiếp tục xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao, diện tích chăn thả bị thu hẹp; đàn bò giữ ổn định, có xu hướng tăng do có thị trường tiêu thụ tốt, giá bán thịt bò hơi ở mức khá, người chăn nuôi có lãi ổn định, đồng thời có được sự hỗ trợ nguồn vốn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương; chăn nuôi gia cầm luôn được quan tâm và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, do giá thức ăn chăn nuôi vẫn còn ở mức cao và diễn biến bất thường, giá bán các loại sản phẩm dao động quanh vùng giá thấp, sức tiêu thụ của thị trường giảm, nhất là tại các bếp ăn tập thể của các khu công nghiệp, trong khi đó giá con giống tăng, khiến người nuôi gà công nghiệp thua lỗ, khiến người chăn nuôi gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì, mở rộng và phát triển đàn.
6.3. Công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm
6.3.1. Công tác phòng chống và điều trị
- Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Trong 6 tháng đầu năm 2023 đến nay, bệnh DTLCP đã xảy ra tại 49 hộ với 12 thôn tại 4 xã, thị trấn của huyện Lâm Bình; số lượng lợn mắc bệnh phải tiêu huỷ là: 178 con, tổng trọng lượng là: 5.192 kg.
- Các bệnh truyền nhiễm khác: Hiện nay trên địa bàn chưa xuất hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như công tác theo dõi giám sát được tăng cường thường xuyên, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các huyện thành phố để kịp thời xử lý ngay khi dịch bệnh xảy ra.
- Trên địa bàn các huyện, thành phố rải rác xuất hiện các bệnh Tụ huyết trùng; ký sinh trùng, chướng bụng đầy hơi, sán lá gan (đàn trâu, bò,tiêu chảy, lép tô, phân trắng lợn con (đàn lợn); Newcastle, THT, cầu trùng…(đối với đàn gia cầm),đã được nhân viên thú y phát hiện, điều trị khỏi: 3.060/7.045 con, trong đó: Trâu, bò: 438/439 con; đàn lợn: 2.622/2.706 con.
6.3.2. Công tác tiêm phòng: Đã thực hiện công tác tiêm phòng bổ sung cho đàn gia súc, gia cầm, cụ thể như sau: Đàn trâu LMLM: 51.218 con; THT: 53.966 con; đàn bò LMLM: 25.418 con; THT: 25.750 con; đàn lợn LMLM: 20.581 con; THT: 322.860 con; Dịch tả: 317.592 con; đàn gia cầm THT: 2.960.856 con; Niucatson: 3.189.291 con.
6.4. Công tác kiểm dịch vận chuyển và công tác kiểm soát giết mổ
- Trong 6 tháng đầu năm 2023 các Trạm Kiểm dịch vận chuyển ngoại tỉnh: Đã kiểm tra cấp 1.742 giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển, trong đó: 1.680 chuyến vận chuyển 153.455 con gia súc, gia cầm; Vận chuyển 16.556.000 kg nguyên liệu sữa tươi và vận chuyển 40.500 kg sản phẩm động vật đi các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hà Giang...
- Tại các Trạm Kiểm dịch động vật: Duy trì thực nhiện, đã kiểm tra 958 lượt phương tiện vận chuyển đủ thủ tục (397 chuyến vận chuyển 63.951 con gia súc, 554 chuyến vận chuyển 560.023 con gia cầm, 6 chuyến vận chuyển 35.283 kg sản phẩm động vật).
- Kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y: Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp các huyện, thành phố duy trì công tác kiểm soát giết mổ trên địa bàn, đã kiểm tra, đóng dấu: 1.149 con trâu, bò; 30.007 con lợn.
6.5. Về sản xuất lâm nghiệp
Năm 2023, toàn tỉnh phấn đấu trồng mới trên 10.100 ha, trong đó: Rừng sản xuất là 9.700 ha, rừng phân tán 400 ha. Ngay từ đầu năm các địa phương trong tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, người dân tham gia trồng, chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng.
6.5.1. Công tác trồng rừng
Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã trồng được 9.940 ha, tăng 0,75% (tăng 74,17 ha) so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 736,65 nghìn cây.
6.5.2. Khai thác gỗ rừng trồng
Toàn tỉnh khai thác được 581.989 m3 gỗ¬, tăng 6,94% (tăng 37.765 m3) so với cùng kỳ năm 2022. Gỗ khai thác chủ yếu là gỗ rừng trồng nguyên liệu như keo, bạch đàn phục vụ cho các công ty chế biến gỗ và sản xuất giấy trên địa bàn tỉnh.
6.5.3. Công tác quản lý bảo vệ rừng
Hiện nay, thời tiết đã bước vào thời kỳ cao điểm hanh khô, nhiều diện tích rừng trên địa bàn tỉnh có nguy cơ cháy rất cao, đặc biệt là ở một số huyện trọng điểm về cháy rừng. Để chủ động phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) mùa hanh khô, ngành chức năng của tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục cho người dân nâng cao kiến thức về phòng cháy, chữa cháy rừng; triển khai nhiều phương án thiết thực, hiệu quả nhằm hạn chế thấp nhất các vụ cháy rừng xảy ra.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ, diện tích rừng bị cháy trên 6,57 ha; số vụ chặt phá rừng 18 vụ, diện tích rừng bị chặt phá 12,93 ha. Đã xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, đã kiểm tra, phát hiện và xử lý tịch thu 11 phương tiện và 39,53 m3 gỗ các loại; phạt hành chính và bán thanh lý tài sản 356,55 triệu đồng (đã thu nộp ngân sách 233,8 triệu đồng).
6.6. Về thuỷ sản
Ước tính, diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng đầu năm đạt 3.369 ha, giảm 0,57% (giảm 65,83 ha) so với cùng kỳ năm 2022. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 5.189 tấn, tăng 8,1% (tăng 388,89 tấn), trong đó: Sản lượng nuôi trồng 4.589 tấn, tăng 7,51% (tăng 320,65 tấn); sản lượng khai thác 600 tấn, tăng 12,84% (tăng 68,24 tấn); sản xuất giống được 75 triệu con, giảm 0,08% (giảm 0,06 triệu con).
6.7. Phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Mão 2023
Tỉnh đã tổ chức Lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Mão 2023; với số lượng khoảng 3.000 cây trong đó 2.930 cây Keo (Lai mô hoặc Tai tượng hạt ngoại); 70 cây bản địa (cây Chò chỉ, Đinh, Lim... cao trên 1 m có đánh số thứ tự) đảm bảo tiêu chuẩn theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
6.8. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
Năm 2023, toàn tỉnh phấn đấu 12 xã đăng ký hoàn thành xây dựng nông thôn mới, 09 xã xây dựng đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao, trong đó 05 xã trong kế hoạch đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2022 chuyển sang thực hiện năm 2023 và thêm 04 xã xây dựng đạt chuẩn xã nông thôn mới kiểu mẫu, trong đó: 01 xã trong kế hoạch đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2022 chuyển sang thực hiện năm 2023. Toàn tỉnh hiện có 62/122 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 50,82%) tiêu chí bình quân trên xã đạt 15,87 tiêu chí/xã.
Tổ chức Hội nghị công bố kết quả đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP năm 2022 và triển khai nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chương trình OCOP năm 2023. Theo đó, năm 2022, tỉnh đã đánh giá, xếp hạng 66 sản phẩm OCOP. Trong đó, 6 sản phẩm đạt hạng 4 sao, 57 sản phẩm đạt hạng 3 sao, 3 sản phẩm được công nhận nâng hạng từ 3 sao lên 4 sao. Riêng sản phẩm chè Shan tuyết Hồng Thái (Na Hang) loại 1 tôm, 1 lá đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị Hội đồng OCOP cấp quốc gia nâng hạng từ 4 sao lên 5 sao. Năm 2023, tỉnh tiếp tục hỗ trợ nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn hoá, nâng hạng các sản phẩm OCOP. Trong đó, phấn đấu, đánh giá, phân hạng trên 40 sản phẩm OCOP mới đạt từ 3 sao trở lên; nâng hạng trên 10 sản phẩm OCOP từ 3 sao lên hạng 4 sao; hỗ trợ tiêu chuẩn hoá 3 sản phẩm OCOP tiềm năng 5 sao,…
- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã có sức ảnh hưởng rất lớn và tác động tích cực đến đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh khu vực nông thôn, giúp rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Bộ mặt nông thôn được cải thiện, đời sống của nhân dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm đáng kể tại các xã.
7. Sản xuất công nghiệp
- Trong tháng, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Bột ba rít đạt 3.500 tấn, tăng 1.027,21%; bột Felspat nghiền tăng 8,74%; xi măng tăng 26,13%; bột giấy tăng 25,18%; may mặc xuất khẩu tăng 44,08%; giày da tăng 37,14%; thép cây, thép cuộn tăng 6,2%,… Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp chính giảm so với cùng kỳ như: Điện thương phẩm giảm 8,2%; điện sản xuất giảm 61,2%; nước máy thương phẩm giảm 4,39%,...
- Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng đầu năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước như: Điện thương phẩm tăng 1,57%; bột ba rít tăng 40,49%; bột Felspat nghiền tăng 16,95%; giấy đế xuất khẩu tăng 22,46%; giấy in viết, photo thành phẩm tăng 23,42%; giày da tăng 6,12%; gỗ tinh chế tăng 5,96%; thép cây, thép cuộn tăng 28,64%,… Tuy nhiên, một số sản phẩm công nghiệp có chiều hướng giảm so với cùng kỳ như: Điện sản xuất giảm 43,54%; đường kính giảm 18,35%; chè chế biến giảm 6,07%; xi măng giảm 13,44%; bột giấy giảm 10,87%; may mặc xuất khẩu giảm 20,17%,...
Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp tỉnh đang dần phục hồi và phát triển sản xuất hiệu quả, tỉnh đã ban hành các chính sách hỗ trợ, nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp sản xuất và đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng các dự án tại các khu, cụm công nghiệp để sớm hoàn thành đưa vào sản xuất như: Nhà máy gạch tuynel công nghệ cao; Nhà máy Sao Việt Wood và hoàn thành hồ sơ, thủ tục phê duyệt quy hoạch Khu công nghiệp Nhữ Khê - Đội Cấn,… đã góp phần tăng khối lượng sản phẩm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó là sự chủ động thích ứng của các doanh nghiệp trong sản xuất, đẩy mạnh kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh với đối tác có nhu cầu nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong tiêu thụ hàng hóa, giữ vững chất lượng và thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, đóng góp ngân sách lớn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, đối với các nhóm hàng may mặc xuất khẩu, gỗ, đường, bột giấy,… do nhu cầu tiêu dùng giảm của các đối tác thương mại truyền thống lớn như: Trung Quốc, Mỹ và EU giảm dẫn đến đơn hàng sản xuất giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm, phải cắt giảm bớt công nhân do thừa nguồn lao động. Để phục hồi sản xuất, bắt buộc các doanh nghiệp, cùng với đó là chuyển hướng đa dạng sản phẩm và tìm kiếm thị trường mới. Đây là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn đang bất ổn.
8. Thương mại và Dịch vụ
Thị trường hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn tỉnh không có biến động bất thường. Mặc dù chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như giá nguyên, nhiên liệu thế giới, áp lực lạm phát và sự đứt gãy chuỗi cung ứng nhiều hàng hóa cơ bản,… nhưng cơ bản, cung cầu các mặt hàng được bảo đảm, giá có sự tăng, giảm đan xen đối với từng nhóm hàng. Nguồn cung các mặt hàng xăng, dầu đầy đủ, giá trong nước diễn biến và chịu tác động của giá nhiên liệu thế giới. Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ và vận tải trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá so với cùng kỳ; du lịch, lữ hành được phục hồi và khởi sắc; xuất, nhập khẩu ổn định, chỉ số giá được kiềm chế ở mức thấp.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 13.350 tỷ đồng, tăng 1,22% (tăng 2.410,51 tỷ đồng) so với cùng kỳ,…
8.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng 6 ước đạt 2.123 tỷ đồng, tăng 2,11% so với tháng trước, tăng 21,48% so với tháng cùng kỳ. Một số nhóm hàng hóa chính là: Lương thực, thực phẩm tăng 1,09%, tăng 32,47%; hàng may mặc tăng 0,74%, tăng 9,2%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 2,46%, tăng 28,35%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 3,26%, tăng 26,8%; gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 2,27%, giảm 6,07%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 2,46%, giảm 3,44%; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 1,83%, giảm 6,31%,…
- Tính chung trong 6 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 11.760 tỷ đồng, tăng 19,88% so với cùng kỳ. Một số nhóm hàng hóa chính là: Lương thực, thực phẩm tăng 3,93%; hàng may mặc tăng 4,8%, tăng 9,2%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 62,45%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 70,9%; gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 9,19%,…
8.2. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống,
- Trong tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 214 tỷ đồng, tăng 2,77% so với tháng trước, tăng 46,85% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 18 tỷ đồng, tăng 3,54%, tăng 42,91%; dịch vụ ăn uống đạt 195 tỷ đồng, tăng 2,7%, tăng 47,23%.
- Tính chung trong 6 tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.114 tỷ đồng, tăng 41,75% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 90 tỷ đồng, tăng 37,88%; dịch vụ ăn uống đạt 1.024 tỷ đồng, tăng 42,1%.
8.3. Doanh thu du lịch lữ hành và dịch vụ khác
- Trong tháng, doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 0,17 tỷ đồng, tăng 2,38% so với tháng trước. Tính chung trong 6 tháng doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 0,96 tỷ đồng, tăng 130,84%.
- Doanh thu dịch vụ khác trong tháng ước đạt 81 tỷ đồng, tăng 0,57% so với tháng trước, tăng 37,6% so với cùng kỳ, trong đó: Dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ giảm 6,2%, tăng 13,02%; giáo dục và đào tạo giảm 4,54%, tăng 34,66%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 0,14%, tăng 10,51%,…
- Tính chung trong 6 tháng doanh thu dịch vụ khác ước đạt 475 tỷ đồng, tăng 38,35% so với cùng kỳ.
8.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Những khó khăn trong sản xuất và sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa trong tháng 6, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 17,5 triệu USD, giảm 39,44% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó: Xuất khẩu ước đạt 10,4 triệu USD, giảm 48%; nhập khẩu ước đạt 7,1 triệu USD, giảm 20,22%. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất, nhập khẩu ước đạt 112,3 triệu USD, đạt 46,79% kế hoạch, giảm 16,88% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Xuất khẩu ước đạt 67,2 triệu USD, 44,8% kế hoạch, giảm 24,41%; nhập khẩu ước đạt 45,1 triệu USD, đạt 50,1% kế hoạch, giảm 2,5%.
Bên cạnh sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu, giá trị hàng hoá xuất khẩu giảm cũng là một trong những yếu tố làm giảm kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong 6 tháng đầu năm nay. Trong đó, giá xuất khẩu bình quân nhiều mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước, như: Bột ba rít giảm 49,6%, bột giấy giảm 73,3%, giấy in viết, photo thành phẩm giảm 88,5%, hàng dệt may giảm 34,3%, giấy đế xuất khẩu giảm 15,1%… Chỉ có một số ít mặt hàng có giá xuất khẩu tăng như: Chè tăng 437,3%, antimony thỏi tăng 208,8%,...
9. Vận tải hàng hóa và hành khách
Sau một thời gian bị ảnh hưởng vì đại dịch Covid-19, hoạt động vận tải của tỉnh đã phục hồi và có sự tăng trưởng; từ đầu năm đến nay, nhu cầu đi du lịch, lễ hội và vận chuyển hàng hóa của người dân tăng cao. Các đơn vị vận tải đang tích cực tăng cường phương tiện, nhân lực phục vụ nhu cầu đi lại của người dân, hàng hóa vận chuyển được thông suốt, tiết kiệm chi phí xã hội; ngành chức năng đã chú trọng, tăng cường xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, vi phạm nồng độ cồn, chở quá khổ, quá tải, quá số người quy định, phương tiện không bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường...
9.1. Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6 ước đạt 298 tỷ đồng, tăng 0,64% so với tháng trước, tăng 5,17% so với cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách ước đạt 54 tỷ đồng, tăng 3,05%, tăng 8,54%; vận tải hàng hóa ước đạt 243 tỷ đồng, tăng 0,1%, tăng 4,39%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 0,37 tỷ đồng, tăng 11,87%, tăng 35,05%,…
- Tính chung, trong 6 tháng đầu năm 2023, doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 1.738 tỷ đồng, tăng 32,76% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 304 tỷ đồng, tăng 37,91%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.430 tỷ đồng, tăng 31,61%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 2 tỷ đồng, tăng 57,62%,…
9.2. Vận tải hành khách và hàng hóa
9.2.1. Vận tải hành khách
- Khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 1 triệu lượt hành khách, tăng 1,06% so với tháng trước, tăng 38,97% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 73 triệu lượt hành khách.km, tăng 5,6%, tăng 16,76%.
- Tính chung trong 6 tháng, khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 5 triệu lượt hành khách, tăng 48,35% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 398 triệu lượt hành khách.km, tăng 18,62%.
9.2.2. Vận tải hàng hóa
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 2 triệu tấn, tăng 2,15% so với tháng trước, tăng 49,93% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 104 triệu tấn.km, tăng 1,82%, tăng 31,27%.
- Tính chung trong 6 tháng, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 10 triệu tấn, tăng 39,93% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 613 triệu tấn.km, tăng 38,67%.
10. Về du lịch
Tỉnh đã tổ chức thành công các hoạt động Chương trình Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang năm 2023 và trao "Giải thưởng phong cảnh thành phố Châu Á" cho "Quảng trường Nguyễn Tất Thành - Tinh hoa của núi rừng"; Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II - năm 2023 và giải đua thuyền Kayak tỉnh Tuyên Quang mở rộng năm 2023, được đánh giá sáng tạo, phát huy hiệu quả rất tích cực và rõ nét trong việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu hình ảnh miền đất, văn hóa, con người và các sản phẩm du lịch hấp dẫn của Tuyên Quang đến với đông đảo nhân dân, du khách trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy du lịch của tỉnh ngày càng phát triển. Trong thời gian diễn ra các hoạt động, toàn tỉnh đã thu hút gần 145 nghìn lượt du khách đến tham quan, trải nghiệm và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân và du khách.
Tổng số cơ sở lưu trú toàn tỉnh hiện có 421 cơ sở lưu trú, 4.341 phòng, 6.208 giường, trong đó có 33 khách sạn từ 1 đến 4 sao; trên 250 nhà hàng ẩm thực; 13 công ty, văn phòng và đại lý lữ hành đang hoạt động đưa, đón phục vụ khách du lịch đến Tuyên Quang.
Đón trên 1.823.500 lượt khách du lịch đạt 73 % kế hoạch, tăng 44% so với cùng kỳ; tổng thu từ khách du lịch đạt 2.085 tỷ đồng, đạt 70% kế hoạch, tăng 68% so với cùng kỳ.
II. LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Về lao động việc làm
Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm cho người lao động, tổ chức các phiên giao dịch việc làm, các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động, đào tạo nghề, kết nối thông tin, nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp với nhu cầu tìm việc của người lao động để đưa lao động đi làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tạo việc làm cho 15.047 người, đạt 67,8% kế hoạch, tăng 9,4% so cùng kỳ, trong đó: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế tại tỉnh 9.254 người; đi làm việc tại các tỉnh, thành phố trong nước 5.142 người; đi làm việc ở nước ngoài 651 người.
2. Đời sống dân cư
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, giá các mặt hàng thiết yếu như giá điện điều chỉnh tăng, giá các loại lương thực, thực phẩm tăng, dẫn đến chi phí sinh hoạt tăng, đã ảnh hưởng đến đời sống của nhiều hộ gia đình, đặc biệt là nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình, người dân dần thắt chặt chi tiêu hơn cho tiêu dùng cá nhân.
Tinh hình hoạt động của nhiều doanh nghiệp còn gặp nhiếu khó khăn, dẫn đến số lượng lao động bị tạm ngừng việc, thiếu, mất việc làm do thiếu đơn hàng sản xuất có chiều hướng tăng nhẹ. Tuy nhiên, tỉnh đã triển khai đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động, tăng cường hoạt động cung cấp thông tin, kết nối cung – cầu lao động, tư vấn giới thiệu việc làm đối với những người lao động bị mất việc làm để họ sớm tìm được việc làm mới phù hợp, các doanh nghiệp đã khắc phục khó khăn về tài chính để chi trả lương cho người lao động đảm bảo đời sống ổn định,...
Tình hình tiền lương, thu nhập của đa số cán bộ, công nhân, công chức, viên chức về cơ bản tiếp tục ổn định. Dù vây, tiền lương trong khu vực doanh nghiệp vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thị trường lao động; chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ trong khu vực công vẫn còn thấp so với khu vực tư nhân và yêu cầu phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Nhìn chung, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và từng bước được cải thiện hơn; không xảy ra tình trạng thiếu đói; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiếp tục duy trì ổn định, người lao động có tiền lương đảm bảo phần nào cho nhu cầu cuộc sống.
3. Công tác người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội
3.1. Công tác đối với người có công với cách mạng
Tiếp tục thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân người có công; đẩy mạnh thực hiện các phong trào, hoạt động "Đền ơn, đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn", nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công,…
Triển khai các hoạt động tặng quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh đối với người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023. Tổng số là 18.344 suất quà, với tổng trị giá gần 7,6 tỷ đồng. Trong đó: Quà của Chủ tịch nước: 8.011 suất, số tiền 2,48 tỷ đồng; Quà của tỉnh: 8.673 suất, số tiền gần 4,5 tỷ đồng, huyện, xã là 552 suất với tổng giá trị trên 0,2 tỷ đồng; quà do các tổ chức, cá nhân tặng: 1.108 suất, kinh phí 0,4 tỷ đồng; lãnh đạo tỉnh cũng đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà đối với các gia đình người có công với cách mạng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh.
3.2. Công tác giảm nghèo bền vững, bảo trợ xã hội và phòng chống các tệ nạn xã hội
- Công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách xã hội cũng được tỉnh hết sức quan tâm, chú trọng, duy trì chi trả trợ cấp thường xuyên cho trên 38.000 đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng với kinh phí hỗ trợ trên 20 tỷ đồng/tháng. Kịp thời hỗ trợ lượng thực cho các hộ bị thiếu lương thực nhân dịp Tết Nguyên đán và dịp giáp hạt năm 2023 tại các huyện, thành phố là 257.340 kg gạo với 5.624 hộ và 17.156 nhân khẩu. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng triển khai các hoạt động thăm, tặng quà các đối tượng hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh.
- Về điều trị cai nghiện và quản lý sau cai nghiện: Duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác điều trị, quản lý cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh và triển khai các biện pháp hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2023, đã tiếp nhận 51 học viên (Cai nghiện bắt buộc 47 học viên, cai nghiện tự nguyện 03 học viên); cấp giấy chứng nhận hoàn thành cai nghiện cho 36 học viên. Tại thời điểm báo cáo Cơ sở đang quản lý 152 học viên (có mặt 144 học viên; trốn cai 07 học viên; đi viện 01 học viên).
4. Hoạt động giáo dục và đào tạo
Thời gian qua, ngành gió dục tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên, tăng cường các giải pháp đảm bảo an ninh trật tự, an toàn trường học; giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử; phòng, chống dịch bệnh, bạo lực học đường, phòng, chống tai nạn thương tích; phòng, chống các tệ nạn xã hội; bảo vệ trẻ em,... góp phần xây dựng trường học an toàn, thân thiện, lành mạnh. Mạng lưới trường, lớp tiếp tục được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả.Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt chỉ tiêu đề ra. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tiếp tục được bổ sung. Công tác xã hội hóa giáo dục được quan tâm, đẩy mạnh; giáo dục ngoài công lập bước đầu được khuyến khích phát triển.
Tỉnh đã tổ chức Lễ tuyên dương 190 học sinh, sinh viên đạt giải cao và giáo viên, giảng viên có học sinh đạt giải trong các kỳ thi cấp tỉnh, cấp quốc gia năm học 2022-2023. Đặc biệt, đây là cũng là năm học đầu tiên tỉnh Tuyên Quang vinh dự có một dự án của nhóm học sinh trường Trung học phổ thông Chuyên được Bộ Giáo dục và Đào tạo lựa chọn tham dự Hội thi Khoa học Kỹ thuật quốc tế tại Hoa Kỳ.
Tổ chức thành công Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 các trường THPT và trường liên cấp có bậc THPT trên địa bàn tỉnh, Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 8 Trường THPT Chuyên Tuyên Quang với hơn 10.600 thí sinh dự thi không có trường hợp thí sinh, giám thị vi phạm quy chế, kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng kế hoạch đề ra.
Nhằm chuẩn bị tốt nhất cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023, hiện nay, các trường THPT trên địa bàn tỉnh đã xây dựng kế hoạch tổ chức công tác ôn tập, trong quá trình ôn tập các trường đã thường xuyên kiểm tra, đánh giá, phân loại học sinh để điều chỉnh phương pháp ôn tập cho hiệu quả chất lượng học sinh để điều chỉnh phương án ôn tập cho phù hợp, đạt hiệu quả cao.
5. Hoạt động y tế
Tỉnh tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác phòng chống dịch Covid-19 và các dịch bệnh truyền nhiễm khác; tăng cường theo dõi, bám sát tình hình dịch bệnh và tổ chức triển khai hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch; chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống dịch đảm bảo chủ động, sẵn sàng và kịp thời ứng phó với các diễn biến có thể xảy ra của dịch bệnh.
- Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã ghi nhận 1.427 ca mắc Covid-19, hiện đang điều trị là 215 người tại cơ sở y tế và tại nhà.
Về tình hình tiêm chủng vắc xin ngừa Covid-19: Cộng dồn từ đợt 01 đến nay đã tiêm 2.262.389 mũi tiêm, trong đó: Mũi 01: 706.350 người; mũi 02: 695.824 người; mũi 03: 522.484 người; mũi 04: 258.531 người.
+ Tiêm cho người từ 18 tuổi trở lên tỷ lệ tiêm mũi 01 là 100% (510.995 người còn 6.471 người chống chỉ định chưa tiêm); tiêm đủ 2 mũi là 99,7% (513.502 người), 79.200 người được tiêm bổ sung để hoàn thành liều cơ bản; tỷ lệ tiêm mũi 03 là 90,8% (461.431 người); hoàn thành tiêm mũi 04 cho đối tượng ưu tiên, số người được tiêm mũi 04: 258.531 người.
+ Tiêm cho trẻ từ 12 đến dưới 18 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt trên 99,1% (77.991 trẻ; tiêm đủ 02 mũi đạt 100% (78.799 trẻ), tiêm mũi 3 là 77,6% (61.053 trẻ) tỷ lệ tiêm mũi 3 cao nhất là Yên Sơn (97,7%) thấp nhất là Sơn Dương (69,6%).
+ Tiêm cho trẻ từ 05 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 01 đạt 99,9% (117.364/117.439) các huyện, thành phố đạt trên 99%; tiêm 02 mũi là 88,2% (103.523 trẻ), hiện chưa có phản ứng phụ hoặc tai biến xảy ra.
- Về công tác khám chữa bệnh: Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm quá tải, nâng cao chất lượng dịch vụ các tuyến. Tổ chức kiểm tra giám sát công tác khám chữa bệnh ở một số Bệnh viện, Trạm Y tế xã nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc trong công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là khám chữa bệnh BHYT thanh toán theo giá dịch vụ y tế mới. Tổng số lượt khám bệnh trong 6 tháng đầu năm đạt 453.379 lượt người, trong đó: Bệnh viện tuyến tỉnh: 110.387 lượt, Trung tâm Y tế huyện: 166.094 lượt, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 20.094 lượt, Trạm Y tế xã, phường, thị trấn: 156.804 lượt. Công suất sử dụng giường bệnh tại Bệnh viện tuyến tỉnh đạt 112,8%, Trung tâm Y tế huyện 90,8% và Bệnh viện Đa khoa khu vực 68,3%. Ngày điều trị trung bình tại Bệnh viện tuyến tỉnh đạt 7,3 ngày, Trung tâm Y tế huyện: 5,6 ngày, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 5,9 ngày.
- Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) cũng đã được tỉnh triển khai bằng nhiều giải pháp như: Tăng cường công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng; triển khai công tác hậu kiểm chất lượng, giám sát các mối nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng ATVSTP trên địa bàn toàn tỉnh, qua đó kiểm tra, giám sát tại 1.530 cơ sở, đạt 60,9% kế hoạch; xử lý 66 cơ sở vi phạm các quy định về ATVSTP; triển khai việc thẩm định và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATVSTP cho 88 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại các huyện, thành phố, đạt 68,2% kế hoạch. Trong 6 tháng đầu năm toàn tỉnh đã ghi nhận 04 vụ ngộ độc thực phẩm với 12 người mắc; 02 trường hợp đã tử vong.
6. Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao
- Lĩnh vực văn hoá: Nhiều hoạt động văn hóa được tổ chức tại các địa phương trong tỉnh với quy mô và nhiều hoạt động, đáp ứng nhu cầu của người dân và du khách tham quan trong và ngoài tỉnh; tổ chức các hoạt động tuyên truyền Kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Xây dựng dự thảo Kế hoạch tổ chức Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ XIV do tỉnh Tuyên Quang đăng cai tổ chức có sự tham gia của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang và Lễ hội Thành Tuyên năm 2023 được tổ chức quy mô cấp tỉnh, ngoài sự tham gia của các tỉnh Việt Bắc, dự kiến có thêm 2 địa phương của Hàn Quốc và Lào có quan hệ hợp tác với tỉnh Tuyên Quang tham gia. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh được triển khai.
- Lĩnh vực thể dục, thể thao: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động ''Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại''. Tổ chức thành công 7 giải thể thao cấp tỉnh; 16 giải thể thao cấp huyện, thành phố; 172 giải thể thao cơ sở. Duy trì hoạt động 6 lớp đội tuyển năng khiếu với 30 vận động viên; 7 lớp đội tuyển trẻ với 68 vận động viên; 03 lớp đội tuyển tỉnh với 20 vận động viên, tham gia 08 giải thể thao toàn quốc, đoạt 08 HCV, 5 HCB; 14 HCĐ. Chuẩn bị các điểu kiện tổ chức đăng cai giải Vô địch các lứa tuổi trẻ Vật cổ điển, vật tự do quốc gia năm 2023.
7. Một số hoạt động khác
- Tỉnh đã tổ chức Lễ ra quân huấn luyện năm 2023 và phát động đợt thi đua cao điểm, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Trong đợt giao quân năm nay, toàn tỉnh có 1.275 công dân nhập ngũ. Trong đó, có 1.050 công dân nhập ngũ vào các đơn vị quân đội, 225 công dân tham gia nghĩa vụ công an, có 02 tân binh là đảng viên; 8 tân binh có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng, trung cấp; tân binh là dân tộc thiểu số chiếm gần 70%; độ tuổi trung bình 19 tuổi.
- Đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng kế hoạch các xã điển hình về Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại 10 xã trên địa bàn toàn tỉnh và kế hoạch xây dựng 01 Công an phường điển hình, kiểu mẫu về an ninh trật tự và văn minh đô thị năm 2023.
- Tỉnh đã tổ chức thành công Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 325/QĐ-TTg ngày 30/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ. Theo định hướng đến năm 2050, Tuyên Quang là tỉnh phát triển, thu nhập cao của vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, có môi trường xã hội văn minh, hiện đại, sáng tạo, dân chủ. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển xanh, công nghiệp sinh thái, thông minh; dịch vụ phát triển đa dạng, hiện đại; sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Tổ chức Lễ phát động thi đua chuyển đổi số - Năm dữ liệu số Tuyên Quang năm 2023 và ra mắt ứng dụng Chính quyền số tỉnh Tuyên Quang (Tuyên Quang ID) nhằm nâng cao năng lực hoạt động, cung cấp dịch vụ nghiệp vụ của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh đối với công dân, doanh nghiệp và đẩy mạnh quá trình sử dụng dịch vụ công của tỉnh; triển khai nhiều giải pháp trọng tâm trong việc đẩy mạnh công tác chuyển đổi số và phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số, kinh tế số, xã hội số trên địa bàn tỉnh, phấn đấu xếp hạng trong top 35 của cả nước về chuyển đổi số; cùng với đó là phấn đấu nâng Chỉ số đánh giá chuyển đổi số tỉnh Tuyên Quang xếp trong tốp 45 tỉnh với những việc cụ thể sau: Xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh (IOC); duy trì hệ thống giám sát an toàn an ninh thông tin 4 cấp cho các hệ thống dùng chung của tỉnh; giải pháp phòng chống mã độc cho máy vi tính của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh.
- Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh tỉnh đã tổ chức công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành, huyện, thành phố (DDCI) năm 2022 và đối thoại doanh nghiệp quý II-2023, hội nghị nhằm tháo gỡ các vướng mắc, rào cản, “điểm nghẽn” gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
8. Tình hình an toàn giao thông, thiên tai và phòng chống cháy, nổ
8.1. Về an toàn giao thông
Tiếp tục triển khai các đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự, an toàn giao thông, nhất là vi phạm về nồng độ cồn khi lái xe; vi phạm tốc độ, tránh, vượt sai quy định; vi phạm chở hàng quá tải trọng; phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật; không đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy, xe đạp điện; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trên các tuyến quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, khu vực trung tâm thành phố, trung tâm huyện, tuyến đường thường xảy ra tai nạn giao thông.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm bị thương 06 người. So với tháng trước tăng 50% về số vụ tai nạn, số người bị thương tăng 200%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 14,29%, số người bị thương giảm 14,29%.
Tình hình tai nạn giao thông toàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 giảm cả 3 tiêu chí; số vụ tai nạn giao thông 36 vụ, số người chết 12 người và làm bị thương 27 người. So với cùng kỳ năm trước: Số vụ tai nạn giao thông giảm 2,7% (giảm 01 vụ); số người chết giảm 7,69% (giảm 01 người); số người bị thương giảm 15,62% (giảm 05 người).
8.2. Về cháy nổ
Tháng 6/2023, toàn tỉnh không xảy ra vụ cháy, nổ nào. Tính chung 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy, làm bị thương 05 người, thiệt hại ước tính khoảng 1,8 tỷ đồng.
8.3. Thiệt hại do thiên tai
Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 3 đợt thiên tai (vào các ngày 24/4; ngày 29/4 và ngày 8/5). Mưa lớn kèm theo dông lốc trên diện rộng đã gây ra những thiệt hại về tài sản của người dân, làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân, cụ thể như sau:
Thiệt hại về người: Mưa lớn đã làm bị thương 01 người tại huyện Na Hang; thiệt hại về nhà ở: 01 nhà bị hư hỏng hoàn toàn; 241 nhà bị tốc mái, hư hỏng tại các huyện Lâm Bình, Na Hang, Hàm Yên và Sơn Dương.
Thiệt hại về nông nghiệp: Giông lốc đã làm 33,45 ha lúa bị ngập; 500,67 ha ngô và 81,5 ha rau màu bị ảnh hưởng; 31,5 ha cây lâm nghiệp bị gãy đổ và nhiều tuyến đường giao thông liên xã bị sạt lở khiến việc đi lại của người dân gặp nhiều khó khăn. Ước giá trị thiệt hại các đợt thiên tai là 1.060 triệu đồng.
Sau khi các đợt thiên tai xảy ra, chính quyền tại các địa phương đã huy động lực lượng tại chỗ, hỗ trợ người dân dọn dẹp nhà cửa; thu dọn tài sản, lợp lại nhà cho các hộ bị thiệt hại, khẩn trương khắc phục các các tuyến giao thông bị sạt lở; đồng thời, sẵn sàng triển khai các biện pháp ứng phó và hướng dẫn người dân chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống, bảo đảm an toàn tuyệt đối tài sản và tính mạng của người dân.
Theo dự báo từ nay đến hết năm, trên địa bàn tỉnh sẽ còn xuất hiện nhiều đợt thiên tai xảy ra; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng, đặc biệt là nơi có địa hình dốc, khu vực có kết cấu đất đá kém ổn định, vùng trũng thấp, ven sông suối. Để chủ động ứng phó với các điều kiện thời tiết cực đoan, tỉnh đã yêu cầu các ngành chức năng, địa phương tập trung theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết để chủ động tổ chức di dời, sơ tán người dân khi có tình huống xảy ra; đồng thời, kiểm tra rà soát và thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn công trình giao thông, thủy lợi, chủ động các biện pháp ứng phó nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra.
9. Đánh giá chung
Đánh giá chung, Tình hình kinh tế - xã hội của cả nước 6 tháng đầu năm 2023 chịu nhiều áp lực do kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; sự suy suy giảm của các nền kinh tế lớn cũng như các đối tác thương mại lớn của Việt Nam và cuộc xung đột Nga – Ukraine vẫn tiếp diễn cùng với hàng loạt vấn đề phát sinh khác như gián đoạn chuỗi cung ứng, đà tăng giá của nhiều mặt hàng nguyên vật liệu sản xuất,...gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế, thương mại, tài chính, tới chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu của thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn duy trì đà tăng trưởng và đạt được nhiều kết quả tích cực so với các tỉnh trong khu vực: Tốc độ tăng trưởng GRDP quý I tăng 8,42%, quý II tăng 7,26% và 6 tháng đầu năm 2023 tăng 7,55%; lạm phát được kiểm soát; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện; tập trung thu hút được các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội,...Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, thách thức: Một số sản phẩm công nghiệp và sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của tỉnh còn đạt thấp so với kế hoạch; biến động tăng của giá nguyên liệu, vật liệu đầu vào trong những tháng đầu năm (sắt, thép, vật liệu xây dựng,...); sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm ở một số ngành có thế mạnh của tỉnh như: Dệt, may, da giày, sản xuất giường, tủ, bàn, ghế, sản xuất kim loại; mức độ rủi ro với doanh nghiệp vẫn gia tăng trong bối cảnh cầu nhu cầu thị trường giảm, dòng tiền dần cạn kiệt sau hơn 2 năm dịch bệnh trong khi doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn; các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, một số khoản thu ngân sách còn đạt thấp; tình hình giải ngân vốn đầu tư công, tiến độ triển khai thực hiện Chương trình phục hồi phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm,...
10. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023
Với quyết tâm hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đã đề ra trong năm 2023. Để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu theo kế hoạch cần phải tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, chủ động, tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn tỉnh; tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, tháo gỡ kịp thời các khó khăn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu đạt mục tiêu giải ngân hết số vốn đầu tư công được giao theo kế hoạch; phấn đấu trong 6 tháng đầu năm, giải ngân tối thiểu 50%, cả năm giải ngân 98% nguồn vốn, đảm bảo đóng góp vào tăng trưởng của tỉnh 1%; đẩy nhanh tiến xây dựng đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai; hoàn thiện các thủ tục công tác chuẩn bị đầu tư để khởi công cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang; đẩy nhanh dự án đường trục phát triển đô thị từ thành phố Tuyên Quang đi trung tâm huyện Yên Sơn, đường từ thành phố Tuyên Quang đi suối khoáng Mỹ Lâm, Dự án cầu Xuân Vân, dự án Flamingo Tân Trào... Các dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; các công trình thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Tuyên Quang,... nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Hai là, tiếp tục thực hiện đồng bộ, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh; chú trọng công tác chuyển đổi số đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế; kịp thời hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh.
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp phát triển công nghiệp, xây dựng với trọng tâm vào các ngành mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế như: Công nghiệp chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da giày, điện tử,… đôn đốc tiến độ và kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án công nghiệp trọng điểm, để các dự án sớm hoàn thành đầu tư đưa vào sản xuất, nhằm gia tăng sản lượng và đóng góp thêm các sản phẩm công nghiệp mới và có phương án bù đắp các sản phẩm thiếu hụt, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu sản xuất công nghiệp theo kế hoạch.
Bốn là, tập trung triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2023; tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhà nước; rà soát, xác định chính xác những nguồn thu còn tiềm năng, nguồn thu chưa khai thác hết, còn dư địa để tổ chức thực hiện, khai thác tăng thu, bù đắp các khoản hụt thu; phấn đấu hoàn thành dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn.
Năm là, triển khai đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ về các gói hỗ trợ hồi phục kinh tế như: Hỗ trợ lãi suất 2%/năm thuế giá trị gia tăng đối với tất cả nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất giá trị gia tăng 10% xuống còn 8%, gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2023; thực hiện tốt công tác hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp,... Đây là những giải pháp rất cần thiết, là nguồn lực đáng kể để tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, nhằm nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước.
CỤC THỐNG KÊ TUYÊN QUANG
Tin tức khác
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Tuyên Quang
(25/06/2024)
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022 tỉnh Tuyên Quang
(30/05/2022)
THÔNG BÁO
Nghị định số 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023 của Chính p...
Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính ...
Quyết định số 349/QĐ-UBND ngày 01/4/2022 của UBND tỉnh về vi...
Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 của Bộ trưởng Bộ T...
Lịch tiếp công dân
Văn bản số 2068/UBND - THVX ngày 22/5/2023 của Ủy ban n...
Quyết định 43 về Điều chỉnh thời gian công bố lịch phổ biến ...
Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu ...
Lich phổ biến thông tin thống kê năm 2024
Quyết định số 484/QĐ-UBND ngày 12/8/2022 của UBND tỉnh Về vi...
Chỉ thị số 07/CT-TTg Về việc tăng cường công tác thống kê Nh...
Quyết định số 648/QĐ-TCTK ngày 16/6/2022 của Tổng cục Thống...
Quyết định số 1228/QĐ-UBND ngày 29/8/2022 của UBND tỉnh về v...
Văn bản số 1695/UBND - TH ngày 01/6/2022 của UBND tỉnh Về vi...
ẢNH HOẠT ĐỘNG
Hoạt động ngành
Thiên nhiên Tuyên Quang
Tổng điều tra
Điều tra thường xuyên
TRIỂN KHAI CÔNG TÁC
Phòng Thống kê Tổng hợp
Phòng Thống kê Kinh tế
Phòng Thống kê Xã Hội
Phòng Thu thập Thông tin Thống kê
Phòng Tổ chức - Hành chính
LIÊN KẾT WEBSITE