MyLabel
Đường 17/8 Phường Minh Xuân - TP. Tuyên Quang
0207 3822.352
Email:tuyenquang@gso.gov.vn
Trang chủ
Văn bản pháp lý
Tin tức
Inforgraphics
Thư viện video
Thư viện ảnh
Liên hệ - Góp ý
Giới thiệu chung
Giới thiệu
Sơ đồ tổ chức
Lịch sử phát triển
Chức năng nhiệm vụ
TRIỂN KHAI CÔNG TÁC
Phòng Thống kê Tổng hợp
Phòng Thống kê Kinh tế
Phòng Thống kê Xã Hội
Phòng Thu thập Thông tin Thống kê
Phòng Tổ chức - Hành chính
TIN TỨC SỰ KIỆN
Tin hoạt động ngành
Hoạt động Chi bộ
Hoạt động Công đoàn
Tin địa phương
Hoạt động đoàn TNCS Hồ Chí Minh
THANH TRA THỐNG KÊ
Tin thanh tra
Văn bản thanh tra
Chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng với thống kê tỉnh thành phố trực thuộc TW
Chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng với DNNN, DN và dự án có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
BÁO CÁO TÌNH HÌNH KT-XH
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 1
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 2
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý I
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 4
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 5
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 7
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 8
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý III
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 10
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 11
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 12
KQ các cuộc điều tra
Tổng điều tra Dân số
Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp
Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và Thủy sản
Điều tra Vốn đầu tư
Điều tra Thương mại - Giá
Điều tra Công nghiệp - Xây dựng
Điều tra Cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể
Điều tra Doanh nghiệp
Điều tra dân số
Điều tra khảo sát mức sống dân cư
Điều tra lao động việc làm
Điều tra Nông nghiệp
Các cuộc điều tra khác
Lĩnh vực chuyên môn
Hệ thống chỉ tiêu thống kê
Qui trình ISO 9001:2015
Văn bản pháp lý
Quyết định số10/2020/QĐ-TTg Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đề án-312-QĐ-TTg
Nghị định số 94/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê
Nghị định số 95/2016/NĐ-CP Quy định về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê
Nghị định số 97/2016/NĐ-CP Quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia
Quyết định số 54/2016/QĐ-TTg Ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
Luật Thống kê
Thông tư số 13/2019/TT-BKHĐT Quy định năm 2020 làm năm gốc để tính các chỉ tiêu thống kê theo giá so sánh
Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 15/11/2021 của Chính phủ bổ sung xử phạt trong lĩnh vực Thống kê
Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 về sủa đổi bổ sung Nghị định số 94/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 và Nghị định số 94/2022/NĐ-CP ngày 07/11/2022
Niêm giám thống kê
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến
69
Lượt truy cập
477552
IP của bạn 1
44.200.122.214
Trang chủ
»
Thông tin kinh tế xã hội
»
Chi tiết
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2023 tỉnh Tuyên Quang
9/25/2023
Năm 2023, là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020- 2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025.
Ngay từ đầu năm, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, sự điều hành tập trung, linh hoạt, sáng tạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành, địa phương, sự chung sức, đồng lòng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp; tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã ổn định và khởi sắc ở hầu hết các ngành, lĩnh vực nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải và du lịch; tỉnh cũng tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, công tác chuyển đổi số được chú trọng; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị động lực, công nghệ thông tin được phát triển đồng bộ. Công tác triển khai các chính sách giảm nghèo, bảo trợ xã hội tiếp tục được thực hiện hiệu quả. Các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch được quan tâm, đẩy mạnh; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, kinh tế của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tuy tăng so với cùng kỳ nhưng còn đạt thấp so với kế hoạch; kim ngạch xuất, nhập khẩu các mặt hàng chủ lực của tỉnh giảm so với cùng kỳ; việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp còn khó khăn; chi phí nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất liên tục tăng, ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; tiến độ thi công các công trình trọng điểm còn chậm, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư còn thấp,... nhu cầu đầu tư các chương trình phục hồi, phát triển kinh tế trong tỉnh lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp. Kết quả đạt được cụ thể ở các ngành, lĩnh vực như sau:
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Tình hình tài chính, ngân hàng 9 tháng năm 2023
1.1. Thu, chi ngân sách nhà nước
1.1.1. Thu ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện là 1.855 tỷ đồng, đạt 57,97% dự toán năm, tăng 0,27% so với cùng kỳ. Trong đó thu nội địa ước thực hiện là 1.759 tỷ đồng, đạt 55,66% so với dự toán giao, giảm 2,79%.
Một số khoản thu đạt khá là:
- Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước địa phương ước thực hiện là 336 tỷ đồng, đạt 51,4%, tăng 3,86%; thu từ khu vực Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 44,7 tỷ đồng, đạt 111,71%, tăng 161,48%.
- Thu từ thuế Thu nhập cá nhân ước thực hiện 99 tỷ đồng, đạt 76,13%, tăng 4,05%; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết ước thực hiện 17 tỷ đồng, đạt 84,57%, tăng 23,13%; thu khác của ngân sách ước thực hiện 72 tỷ đồng, đạt 72,46%, tăng 26,63%.
Một số khoản thu thấp:
- Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước trung ương 195 tỷ đồng, đạt 55,74%, giảm 15,58%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 443 tỷ đồng, đạt 54%, giảm 2,03%; thu từ thuế bảo vệ môi trường 153 tỷ đồng, đạt 38,21%, giảm 30,93%.
- Một số nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến tiến độ dự toán:
+ Do ảnh hưởng của các chính sách giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của đại dịch Covid-19 dẫn đến một số khoản thu thấp hơn so với cùng kỳ.
+ Sản lượng của Công ty Thủy điện Tuyên Quang - Chi nhánh Tập đoàn Điện lực Việt Nam kê khai nộp thuế trong 9 tháng đầu năm 2023 ước giảm 391,7 triệu Kwh so với cùng kỳ.
- Một số dự án tại tại Khu công nghiệp Long Bình An bị chậm tiến độ đã dự toán ghi thu, ghi chi tiền đền bù giải phóng mặt bằng nhà đầu tư ứng trước được trừ vào tiền thuê đất phải nộp, ảnh hưởng đến số tiền thuê đất ghi thu, ghi chi thực hiện trong 9 tháng năm 2023.
- Một số địa bàn huyện, thành phố chậm triển khai công tác đấu giá quyền sử dụng đất, dẫn đến kết quả thu tiền sử dụng đất tại một số địa bàn còn thấp so với dự toán được giao.
1.1.2. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách nhà nước là 7.778 tỷ đồng, đạt 58,21% dự toán, giảm 0,69% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển là 1.447 tỷ đồng, đạt 97,86%, giảm 10,39%; chi thường xuyên là 4.083 tỷ đồng, đạt 58,92%, tăng 6,56%,...
Trong 9 tháng năm 2023, tỉnh đã tập trung điều hành dự toán ngân sách nhà nước chủ động, chặt chẽ, bảo đảm kỷ luật tài chính, ngân sách, an sinh xã hội, bảo đảm đúng dự toán được duyệt, các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội trên địa bàn; chủ động rà soát sắp xếp các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết, tiết kiệm, cắt giảm những khoản chi thường xuyên, xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện các nhiệm vụ chi đã giao trong dự toán đảm bảo tiến độ, không để tình trạng thực hiện chậm, dồn vào cuối năm.
1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng
Từ đầu năm đến nay, các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp các gói vay với lãi suất ưu đãi để phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong những tháng cuối năm, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi khả quan trong các tháng qua. Trong bối cảnh tình hình giải ngân vốn đầu tư công gặp nhiều khó khăn thì mức tăng trưởng tín dụng thời gian qua đã góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
- Về hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động tại địa phương ước thực hiện đến 30/9/2023 là 29.500 tỷ đồng; so với 31/12/2022 tăng 2.183 tỷ đồng (+8%).
- Về hoạt động tín dụng: Dư nợ ước thực hiện đến 30/9/2023 là 27.850 tỷ đồng; so với 31/12/2022 tăng 1.573 tỷ đồng (+6%), cụ thể như sau:
+ Dư nợ của các Ngân hàng thương mại là 23.890 tỷ đồng; so với 31/12/2022 tăng 1.326 tỷ đồng (+5,9%).
+ Dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội là 3.960 tỷ đồng; so với 31/12/2022 tăng 247 tỷ đồng (+6,7%).
- Chất lượng tín dụng: Nợ xấu của các Ngân hàng đến 30/9/2023 khoảng 192 tỷ đồng, chiếm 0,69% trên tổng dư nợ; so với 31/12/2022 giảm 0,09 điểm phần trăm (+136%).
2. Giá cả
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2023 tăng 0,75% so với tháng trước, tăng 4,25% so với cùng kỳ năm trước.
Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính thì có 08 nhóm tăng giá so với tháng trước, 01 nhóm giảm giá, 02 nhóm giữ giá ổn định (giáo dục, bưu chính viễn thông).
Trong 8 nhóm hàng tăng giá, so với tháng trước, bao gồm những nhóm hàng sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,27% do thời gian nghỉ lễ Quốc Khánh 2/9 kéo dài 4 ngày và tỉnh đã tổ chức Khai mạc Du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ XIV và Lễ hội Thành Tuyên năm 2023 đã thu hút đông đảo người dân và du khách trong nước, quốc tế về tham gia lễ hội nên nhu cầu về tiêu thụ lương thực, thực phẩm và ăn uống ngoài gia đình tăng theo; đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%, do nhu cầu tiêu thụ các loại rượu, bia và nước uống tăng lực của người dân tăng; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,18% do bước vào đầu năm học mới nên nhu cầu nhu cầu mua sắm quần áo may sẵn tăng; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,73% do thời tiết nắng nóng do nhu cầu tiêu dùng điện, nước sinh hoạt trong tháng tăng; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,36% do bước vào thời điểm giao mùa xuất hiện các bệnh liên quan đến đường hô hấp, nhiễm khuẩn, cúm,… có chiều hướng gia tăng khiến nhu cầu sử dụng thuốc và dịch vụ y tế tăng; giao thông tăng 1,48% là do giá xăng, dầu điều chỉnh tăng tại các kỳ điều hành giá của Tập đoàn xăng dầu Việt Nam về mức giá bán lẻ xăng, dầu (xăng tăng 3,55%, dầu diesel tăng 5,97%); văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,48%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,24%,…
Có 01 nhóm hàng giảm giá là thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,14%, do bước sang mùa thu thời tiết mát mẻ, dễ chịu nên nhu cầu mua sắm các thiết bị làm mát của của người dân giảm.
- CPI bình quân quý III tăng 1,98% so với cùng quý năm trước. Một số nguyên nhân cơ bản tác động làm CPI trong quý tăng là những nhóm hàng chủ yếu sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng có mức tăng cao nhất với mức tăng 3,95%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,08%; giao thông tăng 1,59%,…
- CPI bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 4,45% so với cùng kỳ năm 2022. Một số nguyên nhân cơ bản đã tác động tăng CPI là những nguyên nhân chủ yếu sau: Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất với mức tăng 40,63% do thực hiện tăng học phí năm học mới 2022-2023 đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,96%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,62%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,86%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,8%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,44%,…
- Chỉ số giá vàng tăng 0,86% so với tháng trước, tăng 10,94% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,09% so với tháng 12 năm trước. Bình quân quý III tăng 0,29% so với quý cùng kỳ. Tính chung 9 tháng chỉ số giá vàng tăng 0,91% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tăng 1,62% so với tháng trước, tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,75% so với tháng 12 năm trước. Bình quân quý III tăng 1,64% so với quý cùng kỳ. Tính chung 9 tháng chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,51% so với cùng kỳ năm trước.
3. Vốn đầu tư và xây dựng
3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư
Với mục tiêu “Lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”; tỉnh đã tập trung ưu tiên bố trí, sử dụng vốn ngân sách nhà nước như là vốn mồi để kích thích, khai thác tối đa nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác cho hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị, du lịch, dịch vụ,…đây được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, tỉnh đã chú trọng đầu tư cho các dự án trọng điểm, quan trọng có tính kết nối liên vùng, có tác động lan toả lớn, từng công trình, dự án được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ nâng cao đời sống của nhân dân, mà còn là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3.1.1. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn phân theo mục đích đầu tư theo giá hiện hành
Ước thực hiện quý III đạt 4.109 tỷ đồng, tăng 17,59% so với quý cùng kỳ năm trước; tính chung trong 9 tháng năm 2023 ước đạt 10.679 tỷ đồng, tăng 18,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nguồn vốn từ khu vực nhà nước chiếm 29,19% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tiếp tục giữ vai trò đầu tầu dẫn dắt tăng trưởng nguồn vốn đầu tư xã hội và là động lực chính cho phục hồi và phát triển kinh tế, do tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, tập trung vào cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm, thu hút nguồn vốn đầu tư của các khu vực kinh tế khác và toàn xã hội; nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 70,2% tổng nguồn vốn, trong đó vốn của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 36,9%, chứng tỏ khu vực tư nhân sẽ là động lực tăng trưởng chính của tỉnh và đầu tư công có thể là chất xúc tác cho sự tăng trưởng của khu vực này; nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ, chiếm 0,61% tổng nguồn vốn,…
3.1.2. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
- Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện tháng 9 đạt 476 tỷ đồng, tăng 10,7% so với tháng trước; tăng 15,43% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 408 tỷ đồng, tăng 8,77%, tăng 15,37%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 64 tỷ đồng, tăng 24,61%, tăng 15,42%; vốn ngân sách cấp xã đạt 3 tỷ đồng, tăng 12,55%, tăng 22,98%.
- Ước thực hiện quý III đạt 1.262 tỷ đồng, tăng 19,03% so với quý cùng kỳ, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 1.100 tỷ đồng, tăng 19,58%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 154 tỷ đồng, tăng 15,91%; vốn ngân sách cấp xã đạt 8 tỷ đồng, tăng 7,06%.
- Ước thực hiện 9 tháng đạt 2.754 tỷ đồng, đạt 52,14% kế hoạch, tăng 29,81% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 2.417 tỷ đồng, tăng 29,96%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 314 tỷ đồng, tăng 30,6%; vốn ngân sách cấp xã đạt 22 tỷ đồng, tăng 7,46%.
3.2. Xây dựng
Xác định giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ trọng tâm là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư vào địa bàn; do vậy, tỉnh đã tập trung cao độ, giải quyết dứt điểm những vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xây dựng khu tái định cư để bàn giao mặt bằng thi công cho các nhà thầu thi công, kiểm tra, đôn đốc các nhà thầu tập trung nhân lực, vật tư, máy thi công, tăng ca để đẩy nhanh tiến độ thi công; kịp thời nghiệm thu, thanh toán khối lượng hoàn thành; tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất lượng xây dựng công trình điều chuyển vốn từ công trình, dự án không có khả năng giải ngân, giải ngân chậm sang công trình, dự án giải ngân nhanh còn thiếu vốn thanh toán theo đúng quy định; kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc về thủ tục đầu tư,…. phấn đấu đến trước ngày 31/12/2023 giải ngân được 98% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023; đối với vốn năm 2022 kéo dài sang năm 2023 giải ngân 100% trước ngày 31/12/2023.
Năm 2023, Tuyên Quang được giao tổng kế hoạch vốn đầu tư công là 6.954,57 tỷ đồng, trong đó vốn năm 2022 kéo dài sang năm 2023 là 1.302,89 tỷ đồng; vốn được phân bổ, giao theo kế hoạch năm 2023 là 5.651,68 tỷ đồng. Tính đến ngày 19/9/2023, tổng số vốn vốn đầu tư công đã giải ngân được là trên 2.062,16 tỷ đồng, đạt 29,65% kế hoạch, trong đó: Nguồn vốn kế hoạch năm 2023 giải ngân được 1.613,86 tỷ đồng, đạt 28,56%; nguồn vốn năm 2022 kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2023 giải ngân được 448,3 tỷ đồng, đạt 34,4%.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
4.1. Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
- Tính đến ngày 20/9, toàn tỉnh có 13 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 136 tỷ đồng, giảm 18,75% về số lượng; tuy nhiên, số vốn đăng ký tăng 110,35% so với cùng kỳ; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 10,48 tỷ đồng, tăng gấp 2,59 lần so với cùng kỳ.
- Tính chung trong quý III, toàn tỉnh có 65 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 2.060 tỷ đồng, tăng 4,83% về số doanh nghiệp, tăng 217,87% về số vốn đăng ký so với quý cùng kỳ năm trước. Tính chung trong 9 tháng năm 2023, có 192 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 2.989 tỷ đồng, giảm 9% về số doanh nghiệp, số vốn đăng ký tăng 46,8% so với cùng kỳ, số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 15,57 tỷ đồng, tăng gấp 1,61 lần.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu có sự phục hồi, những tín hiệu tích cực trong tình hình sản xuất, kinh doanh cho thấy các doanh nghiệp đã quay trở lại hoạt động bình thường, đã tác động tích cực đến việc phục hồi kinh tế ở tỉnh. Tính chung trong 9 tháng, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 82 doanh nghiệp. Nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.567 doanh nghiệp (bao gồm 11 doanh nghiệp nhà nước và 16 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với tổng số vốn đăng ký trên 30.381 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 11,84 tỷ đồng.
- Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 155 doanh nghiệp, tăng 11,51% (tăng 16 doanh nghiệp so với cùng kỳ). Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 18 doanh nghiệp (giảm 02 doanh nghiệp, giảm 10% so với cùng kỳ).
Nhìn chung, phần lớn những doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể là những doanh nghiệp nhỏ và vừa có sức chống chọi với khó khăn thấp hơn so với những doanh nghiệp có quy mô lớn và một nguyên nhân chủ yếu nữa là do làm ăn thua lỗ kéo dài, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động vì không huy động được vốn, tài chính để tiếp tục hoạt động, trong khi đó năng lực quản lý, điều hành thiếu kinh nghiệm làm cho tình hình kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đi xuống và không thể phát triển, thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường, nên nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp lại, không thể tiếp tục hoạt động dẫn đến phải giải thể doanh nghiệp.
4.2. Điều tra xu hướng kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong quý III
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III năm 2023 cho thấy: Có 35,48% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III năm nay khả quan hơn quý trước; 48,39% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 16,13% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Chỉ số cân bằng của quý III năm 2023 so với quý II là 19,35%. Dự kiến xu hướng kinh doanh quý tiếp theo so với quý hiện tại năm 2023 cho thấy: Có 48,39% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên (trong đó có ngành: Sản xuất trang phục; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; sản xuất sản phẩm từ caosu và plastic; sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn); 38,71% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định (trong đó có ngành: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất kim loại; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế); có 12,9% số doanh nghiệp dự báo tiếp tục khó khăn hơn. Dự tính chỉ số cân bằng của quý tiếp theo so với quý hiện tại là 35,48%.
5. Sản xuất Nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm và ước tính cả năm 2023
Chín tháng đầu năm 2023, sản xuất nông nghiệp còn gặp một số khó khăn do thời tiết khô hạn kéo dài, cây trồng bị thiếu nước trong thời kỳ sinh trưởng, diện tích gieo trồng một số cây trồng chính giảm; sản xuất chăn nuôi cầm chừng do giá bán các sản phẩm chăn nuôi không ổn định (đặc biệt giá lợn và giá trứng gia cầm ở mức thấp kéo dài trong nhiều tháng) trong khi chi phí đầu vào tăng do giá thức ăn chăn nuôi giữ ở mức cao. Tuy nhiên, với nỗ lực của các cấp, các ngành và bà con nông dân, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh nhìn chung đạt kết quả khá, năng suất, sản lượng các loại cây trồng chính ổn định và phát triển, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh.
5.1. Trồng trọt
5.1.1. Cây hàng năm (ước tính cả năm 2023)
Diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm cả năm 2023 ước tính toàn tỉnh gieo trồng được 89.620 ha, giảm 0,56% (giảm 507,04 ha) so với cả năm 2022 (Diện tích giảm chủ yếu ở vụ mùa).
- Cây lúa: Diện tích gieo trồng 42.929 ha, giảm 2,08% (giảm 909,86 ha) so với cả năm 2022, trong đó (lúa lai 18.128 ha, tăng 0,45%, tăng 83 ha; lúa thuần 24.801 ha, giảm 3,85%, giảm 993 ha); năng suất ước đạt 59,56 tạ/ha, tăng 0,31% (tăng 0,18 tạ/ha), trong đó (lúa lai đạt 63,28 tạ/ha, giảm 0,33%; lúa thuần đạt 56,84 tạ/ha, tăng 0,09%, tăng 0,05 tạ/ha); sản lượng ước đạt 255.682 tấn, giảm 1,77% (giảm 4.619,85 tấn), trong đó (lúa lai đạt 114.712,28 tấn, tăng 0,78%, tăng 892,08 tấn; lúa thuần đạt 140.969,42 tấn, giảm 3,76% (giảm 5.511,93 tấn). Diện tích gieo trồng giảm, kéo theo sản lượng cả năm có giảm so với cùng kỳ.
- Cây ngô đã trồng 18.732 ha, tăng 1,21% (tăng 224,75 ha) so với cả năm 2022; năng suất đạt 46,27 tạ/ha, giảm 0,12% (giảm 0,06 tạ/ha); sản lượng đạt 86.668 tấn, tăng 1,09% (tăng 935,17 tấn). Diện tích ngô cả năm, tăng so với cùng kỳ, tăng chủ yếu ở vụ mùa, do người dân mở rộng diện tích gieo trồng, thay diện tích các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp.
- Cây khoai lang đã trồng 1.975 ha, giảm 4,02% (giảm 82,60 ha); năng suất đạt 62,68 tạ/ha, tăng 0,28% (tăng 0,18 tạ/ha); đạt 12.376 tấn, giảm 3,75% (giảm 481,58 tấn). Cây sắn 1.610 ha, giảm 2,93% (giảm 48,55 ha); năng suất đạt 138,21 tạ/ha, tăng 0,5% (tăng 0,68 tạ/ha); sản lượng đạt 22.248 tấn, giảm 2,44% (giảm 557,49 tấn).
- Cây mía đã trồng 1.998 ha, giảm 7,04% (giảm 151,38 ha) so với cả năm 2022; năng suất đạt 577,76 tạ/ha, giảm 1,07 % (giảm 6,24 tạ/ha); sản lượng đạt 115.421 tấn, giảm 8,04% (giảm 10.086,28 tấn).
- Cây đậu tương đã trồng 324 ha, giảm 13,56% (giảm 50,82 ha); năng suất đạt 19,7 tạ/ha, giảm 3,12% (tăng 0,64 tạ/ha); sản lượng đạt 638 tấn, giảm 16,26% (giảm 123,95 tấn). Cây lạc 4.296 ha, giảm 3,68% (giảm 164,29 ha); năng suất đạt 29,43 tạ/ha, tăng 1,04%; sản lượng đạt 12.643 tấn, giảm 2,68% (giảm 347,74 tấn).
5.1.2. Cây lâu năm (ước tính 9 tháng năm 2023)
Ước 9 tháng năm 2023, tổng diện tích cây trồng lâu năm trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Toàn tỉnh hiện có 28.574 ha, giảm 0,98% (giảm 283,44 ha). Trong đó: Nhóm cây ăn quả 19.748 ha, giảm 1,42% (giảm 285,19 ha), nguyên nhân giảm là do một số diện tích cây ăn quả lâu năm đã già cỗi, năng suất thấp và sản lượng thu hoạch kém nên người dân đã chuyển đổi luân canh sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao; cây ăn quả chứa dầu có 74 ha giảm 5,58%; cây chè 8.289 ha, giảm nhẹ 0,89% (giảm 74,17 ha),... cụ thể một số cây trồng chính như sau:
- Cây ăn quả có múi diện tích hiện có 14.622 ha, giảm 2,21% (330,89 ha), diện tích giảm chủ yếu ở cây cam; cây quýt 154 ha, tăng 3,73%; cây chanh 1.319 ha, tăng 12,69%; cây bưởi 5.358 ha, tăng 1,59%; sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt ước đạt 9.824 tấn, tăng 3,71%.
- Diện tích cây nhãn, vải diện tích hiện có 1.216 ha, giảm 0,47% (giảm 5,69 ha), so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Cây nhãn là 899 ha, giảm 1,74%; cây vải là 317 ha, tăng 3,34%, diện tích giảm chủ yếu là do một số diện tích cây đã già cho năng suất thấp cùng với chất lượng quả không cao dẫn đến người dân chặt bỏ, thay vào trồng cây các loại cây khác; sản lượng nhãn ước đạt 5.235 tấn, tăng 6,8%; cây vải 1.808 tấn, tăng 3,6%.
- Cây chè: Hiện có 8.289 ha, giảm 0,89% (giảm 74,17 ha) so với cùng kỳ năm 2022. Diện tích giảm chủ yếu là do giá bán chè búp tươi giảm thấp và bấp bênh, cùng với đó giá phân bón tăng cao, đặc biệt là địa phương đang thiếu nguồn nhân lực lao động cho thu hái chè nên người trồng chè đã chuyển đổi cây trồng khác. Sản lượng ước đạt 61.004 tấn, tăng 0,02% so với cùng kỳ năm 2022.
5.1.3. Tình hình sinh vật gây hại
Trong 9 tháng năm 2023, thời tiết, khí hậu ngày nắng, xen kẽ các đợt mưa dông khá thuận lợi để sâu bệnh phát triển gây hại. Lúa bị rầy nâu, rầy lưng trắng gây hại, sâu đục thân, sâu cuốn lá nhỏ, bọ xít dài gây hại, bọ xít đen, chuột,... Trên cây chè bị nhiễm rầy xanh nhẹ, bọ trĩ, bọ xít, nhện đỏ; trên cây cam: Nhện đỏ, nhện trắng gây hại trung bình, nhện rám vàng; cây lâm nghiệp bệnh phấn trắng, bệnh lở cổ rễ, sâu ăn lá,... các ngành chức năng đã hướng dẫn và chỉ đạo bà con nông dân phòng trừ kịp thời, có hiệu quả, không để dịch bệnh hại nặng cây trồng.
5.1.4. Sản xuất vụ đông năm 2023
Tính đến 15/9/2023 toàn tỉnh đã trồng được 1.175 ha ngô lấy hạt, đạt 25,8% kế hoạch. Trong đó: Huyện Sơn Dương trồng được 283 ha, đạt 25,7%; Yên Sơn 459 ha, đạt 64,2%; Hàm Yên 397 ha, đạt 40,9%; Chiêm Hóa 22 ha, đạt 2,1%.
5.2. Về chăn nuôi
5.2.1. Về số lượng đàn gia súc, gia cầm
Đàn trâu tổng đàn hiện có 88.899 con, giảm 1,61% (giảm 1.457 con) so với cùng kỳ năm 2022; đàn bò 39.004 con, tăng 1,52% (tăng 584 con); đàn lợn 564.364 con, tăng 1,45% (tăng 8.066 con); đàn gia cầm 7.067,11 nghìn con, tăng 3,48% (tăng 237.42 nghìn con).
5.2.2. Về sản phẩm đàn gia súc, gia cầm
Đàn trâu sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 5.756 tấn, tăng 7,16% (tăng 391 tấn) so với cùng kỳ năm 2022; đàn bò đạt 1.529 tấn, tăng 3,8% (tăng 56,04 tấn); đàn lợn đạt 48.183 tấn, tăng 4,88% (tăng 2.239 tấn); đàn gia cầm đạt 14.318 tấn, tăng 6,11% (tăng 824,36 tấn).
Đánh giá chung, tình hình chăn nuôi trong 9 tháng trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, đàn vật nuôi phát triển tốt không có biến động lớn về dịch bệnh, đảm bảo nguồn cung cho thị trường, giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng nhẹ và giữ ổn định, đây là động lực quan trọng để các cơ sở chăn nuôi đẩy mạnh tái đàn, đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho nguồn cung các dịp lễ, Tết sắp tới. Tuy nhiên, giá nguyên liệu đầu vào (thức ăn chăn nuôi, các chi phí khác…) vẫn còn ở mức cao, người chăn nuôi không có lãi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc duy trì, phát triển và mở rộng đàn của các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh.
5.3. Về công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, kiểm dịch vận chuyển và kiểm soát giết mổ 9 tháng năm 2023
5.3.1. Công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm
- Trên địa bàn các huyện, thành phố rải rác xuất hiện các bệnh Tụ huyết trùng; ký sinh trùng, chướng bụng đầy hơi, sán lá gan (đàn trâu,bò,tiêu chảy, lép tô, phân trắng lợn con (đàn lợn); Newcastle, THT, cầu trùng…(đối với đàn gia cầm), đã được nhân viên thú y phát hiện, điều trị khỏi là: 4.558/8.596 con, trong đó: Trâu, bò: 583/583 con; đàn lợn: 3.975/4.113 con. Số con chết: 4.038 con, trong đó: 138 con lợn, 3.900 con gà.
- Các huyện, thành phố tiếp tục triển khai công tác tiêm phòng bổ sung cho đàn gia súc, gia cầm, kết quả tiêm phòng 9 tháng như sau: Đàn trâu LMLM: 51.367 con, THT: 54.116 con; đàn bò LMLM: 25.674 con, THT: 26.054 con; đàn lợn LMLM: 24.543 con; THT: 329.660 con, Dịch tả: 324.392 con; đàn gia cầm THT: 3.009.436 con, Niucatson: 3.231.671 con; đàn chó tiêm phòng dại: 51.802 con;
- Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh xuất hiện rải rác xảy ra tại 05 xã với 19 thôn và 94 hộ trên địa bàn tỉnh; số lợn tiêu hủy 299 con, trọng lượng 9.222 kg, trong đó: 01 xã chưa 21 ngày, 04 xã đã qua 21 ngày chưa công bố hết dịch; tổng số mẫu đã lấy 08 mẫu (01 mẫu âm tính; 07 mẫu dương tính).
5.3.2. Công tác kiểm dịch vận chuyển và công tác kiểm soát giết mổ
- Kiểm dịch vận chuyển ngoại tỉnh: Đã kiểm tra, cấp trên 2.405 giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển 432.702 con gia súc, gia cầm; 25.069 tấn sữa tươi nguyên liệu và 40,5 tấn sản phẩm động vật chế biến làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi đi các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Hà Giang, Nam Định,...
- Các Trạm Kiểm dịch động vật: Duy trì thực hiện kiểm tra trên 1.351 phương tiện vận chuyển đủ thủ tục, trong đó: 536 chuyến vận chuyển 82.708 con gia súc, 801 chuyến vận chuyển 829.528 con gia cầm và 14 chuyến vận chuyển 84.817 kg sản phẩm động vật.
- Công tác kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y được kiểm soát tốt, đã kiểm tra và thu phí 1.580 con trâu, bò và 45.357 con lợn.
5.4. Về sản xuất lâm nghiệp (ước tính có đến ngày 15/9/2023)
5.3.1. Kết quả trồng rừng
Tính chung 9 tháng, toàn tỉnh đã trồng được 11.559 ha rừng, đạt 113,93% kế hoạch, trong đó: Trồng rừng tập trung 11.052 ha, giảm 1,02% (giảm 114,26 ha) so với cùng kỳ, trồng cây phân tán trên 744 nghìn cây (quy ha là 507,14 ha).
5.3.2. Kết quả khai thác rừng trồng
Toàn tỉnh đã khai thác được 8.190 ha gỗ (chủ yếu là rừng trồng), sản lượng trên 951.235 m3, đạt 76,43% kế hoạch, tăng 15,65% (tăng 128.688 m3) so với cùng kỳ, sản lượng củi khai thác đạt 670.988 ster, tăng 4,67% (tăng 29.963 ster), tre, nứa đạt 26.887 tấn, tăng 0,52% (tăng 139 tấn).
Với mục tiêu đưa Tuyên Quang trở thành Khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao và trung tâm sản xuất và chế biến gỗ trong vùng và của cả nước. Tỉnh đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển lâm nghiệp, đi liền với đẩy mạnh sản xuất, nâng cao thu nhập và đời sống cho người trồng rừng và bảo vệ rừng, hướng tới phát triển lâm nghiệp xanh, tuần hoàn; xây dựng nhiều cơ chế chính sách, thu hút được các nhà đầu tư sản xuất chế biến lâm sản với dây chuyền công nghiệp hiện đại như: Công ty cổ phần giấy An Hòa; nhà máy sản xuất đũa xuất khẩu; Công ty cổ phần chế biến gỗ Woodsland Tuyên Quang đã thu mua nguyên liệu tạo điều kiện cho các chủ rừng thực hiện việc khai thác lâm sản mặt khác việc khai thác gỗ nguyên liệu.
Tuy nhiên, kết quả khai thác gỗ vẫn đạt thấp so với kế hoạch đề ra. Nguyên nhân là do: Việc giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, khai thác rừng ở một số địa phương chưa hợp lý; cùng với khó khăn của đầu ra các doanh nghiệp chế biến gỗ đang phải dừng, giãn kế hoạch sản xuất khiến nhiều diện tích rừng được thiết kế để khai thác trong thời điểm này phải dừng lại), từ đầu năm đến hết tháng 5, thời tiết có diễn biến phức tạp, nắng nóng, khô hạn kéo dài dẫn đến công tác khai thác gỗ tiến độ đạt chưa cao.
5.3.3. Công tác bảo vệ rừng:
Công tác quản lý, bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện kế hoạch trồng rừng năm 2023. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng được quan tâm, ngành chức năng và các địa phương cùng các chủ rừng đã tập trung tăng cường lực lượng bám, nắm địa bàn, thường xuyên tuần tra, kiểm tra tại các khu vực có nguy cơ cháy cao, các khu vực đông người qua lại; sẵn sàng phương châm "bốn tại chỗ" khi có cháy rừng xảy ra, nhằm hạn chế tối đa thiệt hại về người và tài sản.Trong 9 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị cháy 10,79 ha; số vụ phá rừng 36 vụ, với diện tích 14,82 ha.
5.4. Về thuỷ sản
Sản xuất thủy sản trong 9 tháng phát triển khá. Công tác phòng chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản được thực hiện hiệu quả nên không có dịch bệnh xảy ra, các loại thủy sản nuôi trồng đều phát triển tốt; các ao, hồ thả cá lưu tiếp tục được đánh tỉa, thả bù và chăm sóc.
- Diện tích nuôi trồng thủy sản ước tính là 3.364 ha, tăng 0,23% so với cùng kỳ năm 2022. Diện tích nuôi trồng tăng do ở một số địa phương các hộ nuôi trồng thủy sản đã mở rộng diện tích nuôi trồng như: huyện Yên Sơn, Sơn Dương và thành phố Tuyên Quang.
- Sản lượng thủy sản ước đạt 9.420 tấn, tăng 8,18% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Cá đạt 9.271 tấn, tăng 8,26%; tôm đạt 138 tấn, tăng 2,65%; thủy sản khác đạt 11 tấn, tăng 12,35%.
Sản lượng nuôi trồng toàn tỉnh tăng do diện tích ao hồ tăng và số lồng cá trên toàn tỉnh tăng đồng thời người dân nuôi cá ngày càng chú trọng đầu tư vào thức ăn, và lựa chọn những loại giống tốt nuôi nên cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
5.5. Phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Mão 2023
Tỉnh đã tổ chức Lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Mão 2023; với số lượng khoảng 3.000 cây trong đó 2.930 cây Keo (Lai mô hoặc Tai tượng hạt ngoại); 70 cây bản địa (cây Chò chỉ, Đinh, Lim... cao trên 1 m có đánh số thứ tự) đảm bảo tiêu chuẩn theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
5.6. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
Năm 2023, toàn tỉnh có 12 xã đăng ký về đích nông thôn mới; đến nay, các địa phương đều đang phấn đấu hoàn thành các tiêu chí, đảm bảo về đích đúng kế hoạch. Tính đến hết năm 2022 toàn tỉnh có 62/122 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới (chiếm 50,82%); 08 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; tiêu chí bình quân trên xã sau khi rà soát theo Bộ tiêu chí quốc gia giai đoạn 2021-2025 là 15,12 tiêu chí/xã (trước rà soát là 15,87 tiêu chí/xã); thành phố Tuyên Quang đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 320/QĐ-TTg ngày 08/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã góp phần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị, theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, có truy suất nguồn gốc và theo nhu cầu thị trường; khơi dậy tiềm năng đất đai, sản vật, lợi thế so sánh, các giá trị văn hóa vùng miền, gắn kết giữa phát triển nông nghiệp với dịch vụ, du lịch. Đến nay Tuyên Quang có 191 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, cụ thể: Nhóm thực phẩm 171 sản phẩm; nhóm đồ uống 13 sản phẩm; nhóm dược liệu và sản phẩm từ dược liệu 03 sản phẩm; nhóm hàng thủ công mỹ nghệ 01 sản phẩm; nhóm dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và điểm du lịch 03 sản phẩm, trên địa bàn 94 xã, phường, thị trấn của 134 chủ thể.
6. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong 9 tháng năm 2023 tiếp tục duy trì được đà phục hồi và duy trì đà tăng trưởng, với kết quả tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau tăng trưởng hơn quý trước; các doanh nghiệp đã vượt qua những khó khăn, thách thức tập trung sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như thép, da giày, gỗ tinh chế và các doanh nghiệp về thương mại, dịch vụ đã có sự tăng trưởng khá, góp phần giữ được mức tăng trưởng cho toàn ngành công nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp khá ổn định, công tác chuẩn bị đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp được quan tâm triển khai thực hiện, nhiều dự án thứ cấp hoàn thành thủ tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thi công xây dựng và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, do những khó khăn từ suy giảm kinh tế toàn cầu trong thời gian qua nên một số ngành sản xuất, chế biến do thị trường bị thu hẹp, thiếu đơn hàng, chi phí nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, sinh hoạt, vận tải còn ở mức cao, áp lực cạnh tranh và sự gia tăng các rào cản kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
6.1. Về phát triển công nghiệp trong tháng
- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng giảm 9,16% so với tháng trước và tăng 3,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 4,91%, tăng 8,43%; cung cấp nước và hoạt động thu gom xử lý rác, nước thải tăng 3,52%, giảm 4,17%; khai khoáng giảm 1,47%, giảm 4,27%; sản xuất và và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 29,2%, giảm 16,39%,...
- Sản phẩm công nghiệp chủ yếu trong tháng của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Điện thương phẩm đạt 112 triệu Kwh, tăng 4,25%; bột ba rít đạt 5.000 tấn, tăng 400%; xi măng đạt 125.000 tấn, tăng 16,49%; giấy in viết, photo thành phẩm đạt 9.293 tấn, tăng 6,83%; may mặc xuất khẩu đạt 1.354 nghìn sản phẩm, tăng 13,64%; giày da đạt 830 nghìn đôi, tăng 14,8%; gỗ tinh chế đạt 3.908 m3, tăng 8,67%; thép cây, thép cuộn đạt 24.207 tấn, tăng 607,08%,… Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ như: Điện sản xuất đạt 152 triệu Kwh, giảm 24,84%; giấy đế xuất khẩu đạt 750 tấn, giảm 26,62%; bột giấy đạt 4.479 tấn, giảm 49,26%; nước máy thương phẩm đạt 660 nghìn m3, giảm 8,15%,...
- Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tháng 9/2023 tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 2,59% so với cùng kỳ. Trong đó: khu vực doanh nghiệp Nhà nước giữ nguyên so với tháng trước và giảm 0,53% so với cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 2,18% so với cùng kỳ; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 5,12% so với tháng trước và tăng 3,79% so với cùng kỳ. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, song các doanh nghiệp đã nỗ lực thực hiện các giải pháp để ổn định sản xuất, tìm kiếm đơn hàng, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động.
- Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 giảm 22,52% so với tháng trước và giảm 12,88% so với cùng kỳ. So với tháng trước, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá là: Ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 14,21%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 11,64%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 11,85%,... một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm là: Sản xuất trang phục giảm 55,39%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) và sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 2,36%; giấy và sản phẩm từ giấy giảm 17,37%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 34,32%.
- Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9 giảm 1,18% so với tháng trước và tăng 68,87% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với tháng trước là: Ngành sản xuất trang phục tăng 7,37%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 81,17%, theo chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm đáng kể là ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 29,96%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) và sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 12,79%; giấy và sản phẩm từ giấy giảm 0,09%,…
6.2. Về phát triển công nghiệp trong quý III
- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý III ước tính tăng 7,6% so với quý trước, giảm 1,19% so với quý cùng kỳ, trong đó: Ngành khai khoáng tăng 13%, giảm 1,16%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,16%, tăng 3,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 111,41%, giảm 19,34%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 2,78%, giảm 3,67%.
- Trong quý một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá so với quý cùng kỳ như: Điện thương phẩm đạt 348 triệu Kwh, tăng 5,53%; bột ba rít đạt 13.375 tấn, tăng 234,36%; giày da đạt 2.571 nghìn đôi, tăng 18,02%; gỗ tinh chế đạt 12.164 m3, tăng 13,07%; thép cây, thép cuộn đạt 67.263 tấn, tăng 52,75%,… Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với quý cùng kỳ như: Điện sản xuất đạt 557 triệu Kwh, giảm 8,9%; xi măng đạt 218.519 tấn, giảm 27,3%; giấy đế xuất khẩu đạt 2.835 tấn, giảm 0,62%; bột giấy đạt 19.336 tấn, giảm 22,3%; may mặc xuất khẩu đạt 3.590 nghìn sản phẩm, giảm 35,2%,…
6.3. Về phát triển công nghiệp 9 tháng năm 2023
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,26% so với cùng kỳ năm. Chia theo từng ngành kinh tế cấp I như sau:
+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì đà tăng trưởng của toàn ngành với mức tăng 11,15% đây là ngành đóng vai trò chủ chốt, bệ đỡ thúc đẩy sự tăng trưởng chung của toàn ngành. Nguyên nhân chủ yếu do một số sản phẩm chế biến sản xuất tăng như: Giấy, thép, bột ba rít, chế biến gỗ,...
+ Ngành cung cấp nước và hoạt động thu gom xử lý rác, nước thải tăng 5,55%. Nguyên nhân chính là nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt ngày càng tăng cùng với đó là hoạt động thu gom xử lý rác thải không độc hại tăng.
+ Ngành khai khoáng giảm 4,2%. Nguyên nhân từ đầu năm đến nay, sản lượng khai thác khoáng hóa chất và khoáng phân bón giảm so với cùng kỳ. Do lượng hàng tồn kho còn nhiều, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ ở mức thấp dẫn đến sản lượng của một số công ty khai thác giảm so với cùng kỳ.
+ Ngành sản xuất và phân phối điện giảm 31,7%, do thời tiết khô hạn kéo dài, lưu lượng nước về hồ thuỷ điện rất thấp, tại các hồ thủy điện nước chủ yếu để tích trữ phục vụ tưới cho cây trồng, nên sản lượng điện từ nhà máy thủy điện giảm sâu làm tổng lượng điện sản xuất giảm 34,52% so cùng kỳ.
Tính chung trong 9 tháng, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Điện thương phẩm tăng 4,16%; bột ba rít tăng 108,63%; giấy đế xuất khẩu tăng 16,6%; nước máy thương phẩm tăng 2,09%; giấy in viết, photo thành phẩm tăng 14,38%; giày da tăng 12,17%; gỗ tinh chế tăng 8,96%; thép cây, thép cuộn đạt tăng 25,88%,… Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm so với cùng kỳ năm trước như: Điện sản xuất giảm 34,52%; đường kính giảm 18,35%; chè chế biến giảm 3,77%; xi măng giảm 23,53%; hàng may mặc xuất khẩu giảm 29,82%,...
- Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn 9 tháng năm 2023 tăng 35,42% so với cùng kỳ. Trong đó: khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 4,2%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 34,59%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 49,16%,...
- Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng giảm 10,86% so với cùng kỳ; một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm là: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) giảm 18,66%; giấy và sản phẩm từ giấy giảm 18,28%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 13,9%; giường, tủ, bàn, ghế giảm 24,51%,… một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá là: Ngành sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 81,34%; chế biến thực phẩm tăng 14,21%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 25,52%; trang phục tăng 8,69%; hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,15%,…
7. Thương mại và Dịch vụ
Hoạt động thương mại, dịch vụ và vận tải trên địa bàn tỉnh 9 tháng diễn ra sôi động, tăng trưởng khá so với cùng kỳ; nguồn cung hàng hóa bảo đảm, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân xuất, nhập khẩu ổn định, chỉ số giá được kiềm chế ở mức thấp.
Tại các chợ, siêu thị, nguồn cung hàng hóa dồi dào cả về chủng loại lẫn số lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng, không có tình trạng khan hiếm hàng hóa và tăng giá đột biến, hàng hóa được tổ chức lưu thông thông suốt. Các nhà sản xuất đã đã chuân bị lượng hàng hóa đầy đủ, mẫu mã phong phú, đa dạng, đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân.
Du lịch của tỉnh đã đạt được nhiều tín hiệu khởi sắc, từ đầu năm đến nay, tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất, văn hóa, con người và mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, bao gồm: Lễ Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang năm 2023 và trao "Giải thưởng phong cảnh thành phố Châu Á" cho "Quảng trường Nguyễn Tất Thành - Tinh hoa của núi rừng"; Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II - năm 2023; giải đua thuyền Kayak mở rộng năm 2023; Lễ hội đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La với chủ đề “Về miền đất mẫu” và Liên hoan trình diễn Thực hành nghi lễ tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ của người Việt; Lễ hội Hương sắc Na Hang (Lễ hội Hoa Lê); Lễ hội Nhảy lửa của người Pà Thẻn; Chương trình du lịch "Qua những miền di sản Việt Bắc" lần thứ XIV (có sự tham gia của 6 tỉnh Việt Bắc, gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang và Tuyên Quang); Liên hoan các Làng văn hóa du lịch cộng đồng 6 tỉnh Việt Bắc; Chương trình “Điện ảnh - Kết nối di sản và du lịch Tuyên Quang”; Hội chợ Thương mại - Du lịch tỉnh Tuyên Quang năm 2023; Chương trình “Trưng bày, giới thiệu tinh hoa ẩm thực Việt” năm 2023 và điểm nhấn nhất và không nơi đâu có là Lễ hội thành Tuyên năm 2023 có quy mô lớn nhất đến nay và đang hướng tới trở thành Lễ hội festival quốc tế với nhiều hoạt động đặc sắc, hấp dẫn sẽ diễn ra từ ngày 20-27/9, các lễ hội trên đã thu hút đông đảo nhân dân, du khách trong nước và quốc tế đến tham quan và trẩy hội, góp phần thúc đẩy du lịch của tỉnh ngày càng phát triển.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước đạt 2.751 tỷ đồng, tăng 3,92% so với tháng trước, tăng 15,32% so với cùng kỳ. Tính chung trong 9 tháng, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 21.277 tỷ đồng, tăng 33,06% so với cùng kỳ.
7.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch và dịch vụ khác
7.1.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa
Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng 9 ước đạt 2.428 tỷ đồng, tăng 3,18% so với tháng trước, tăng 14,4% so với cùng kỳ, cụ thể như sau: Lương thực, thực phẩm tăng 1,37%, tăng 33,61%; hàng may mặc tăng 2,08%, tăng 36,22%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 4,19%, tăng 0,2%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 9,44%, tăng 7,38%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 3,06%, tăng 11,73%,…Tuy nhiên, cũng có một số nhóm hàng tăng so với tháng trước và giảm so với cùng kỳ cùng kỳ như: Vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 8,36%, giảm 32,07%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 0,43%, giảm 13,14%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 5,54%, giảm 35,08%,… Ước tính quý III tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 6.964 tỷ đồng, tăng 17,71% so với cùng quý năm trước. Tính chung trong 9 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 18.796 tỷ đồng, tăng 19,53% so với cùng kỳ.
7.1.2. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ khác
- Trong tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 214 tỷ đồng, tăng 10,9% so với tháng trước, tăng 21,3% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 21 tỷ đồng, tăng 11,26%, tăng 30,35%; dịch vụ ăn uống đạt 193 tỷ đồng, tăng 10,86%, tăng 20,39%. Ước tính quý III doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 618 tỷ đồng, tăng 22,62%. Tính chung trong 9 tháng ước đạt 1.699 tỷ đồng, tăng 31,68%.
- Doanh thu du lịch, lữ hành trong tháng ước đạt 0,46 tỷ đồng, tăng 30% so với tháng trước, tăng 1,11% so với cùng kỳ. Ước tính quý III doanh thu du lịch, lữ hành đạt 1 tỷ đồng, tăng 81,38%. Tính chung trong 9 tháng ước đạt 2 tỷ đồng, tăng 26,3%.
- Doanh thu nhóm dịch vụ khác trong tháng ước đạt 109 tỷ đồng, tăng 7,72% so với tháng trước, tăng 25,69% so với cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ đạt 19 tỷ đồng, tăng 4,05%, tăng 30,6%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt 4 tỷ đồng, tăng 8,93%, tăng 11,07%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 32 tỷ đồng, tăng 21,1%, tăng 91,82%,…. Tuy nhiên, cũng có một số nhóm hàng giảm so với cùng kỳ cùng kỳ như: Dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 04 tỷ đồng, giảm 25,43%; giáo dục và đào tạo đạt 03 tỷ đồng, giảm 18,58%; sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình đạt 13 tỷ đồng giảm 0,41%,... Ước tính quý III doanh thu nhóm dịch vụ khác đạt 296 tỷ đồng, tăng 27,9%. Tính chung trong 9 tháng, ước đạt 780 tỷ đồng, tăng 38,21%.
7.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hiện đã vào tháng cuối cùng của quý 3, các doanh nghiệp đang nỗ lực bước vào mùa sản xuất cuối năm. Nhưng dưới tác động của tình hình thế giới và những biến động thị trường, dự báo tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu những tháng cuối năm 2023 vẫn còn nhiều khó khăn vẫn tiếp diễn; tình trạng thiếu đơn hàng xuất khẩu cộng thêm xu hướng giảm của giá hàng hóa đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình việc làm và đời sống của người lao động. Trong tháng, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 19,03 triệu USD, giảm 0,17% so với tháng trước, tăng 41,89% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung trong 9 tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ước đạt 176,89 triệu USD, đạt 73,71% kế hoạch, giảm 9,77% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 108,51 triệu USD, đạt 72,34%, giảm 15,95%, nhập khẩu ước đạt 68,38 triệu USD, đạt 75,98%, tăng 2,16%, cụ thể như sau:
- Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu trong tháng 9 ước đạt 12,03 triệu USD, tăng 43,59% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chè xuất khẩu đạt 445 tấn, tăng 215,6%; hàng dệt may đạt 1.220 nghìn sản phẩm, tăng 237,5%,… Tính chung 9 tháng, ước đạt 108,51 triệu USD, giảm 15,95% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng có sản phẩm xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: Chè xuất khẩu tăng 296,84%; bột ba rít tăng 144,8%; đũa gỗ xuất khẩu tăng 18,73%; Atimony thỏi tăng 178,64%,… Bên cạnh đó, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt, may giảm 28,31%; giấy đế xuất khẩu giảm 17,91%; bột giấy giảm 69,06%; giấy in viết, photo thành phẩm giảm 95,7%,...
- Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng ước đạt 7 triệu USD, tăng 39,05% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, ước đạt 68,38 triệu USD, đạt 75,98% kế hoạch, tăng 2,16% so với cùng kỳ.
8. Vận tải hàng hóa và hành khách
Hoạt động vận tải ghi nhận sự phục hồi khá tích cực, do tình hình sản xuất của các doanh nghiệp trong tỉnh đã phục hồi trở lại, hoạt động xây dựng đã có xu hướng tăng trưởng trở lại nên nhu cầu vận chuyển hàng hóa, dịch vụ logistics, kê khai hải quan và nhu cầu đi du lịch, lễ hội của người dân tăng khá, đặc biệt trong các kỳ nghỉ lễ vừa qua hoạt động vận tải đã dần khởi sắc trở lại. Tuy nhiên, giá các mặt hàng xăng, dầu tăng cao làm chi phí đầu vào tăng theo, đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh.
8.1. Doanh thu vận tải tải kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải
- Doanh thu vận tải tháng 9 ước đạt 357 tỷ đồng, tăng 15,71% so với tháng trước, tăng 25,68% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 66 tỷ đồng, tăng 25,99%, tăng 25,77%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 291 tỷ đồng, tăng 13,61%, tăng 25,64%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 0,37 tỷ đồng, tăng 13,86%, tăng 33,18%,…
- Tính chung trong quý III, doanh thu vận tải kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 963 tỷ đồng, tăng 15,96% so với quý cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 171 tỷ đồng, tăng 20,63%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 791 tỷ đồng, tăng 14,98%; dịch vụ hỗ trợ vận tải kho bãi đạt 1 tỷ đồng, tăng 21,04%,…
- Tính chung trong 9 tháng, doanh thu vận tải kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 2.702 tỷ đồng, tăng 26,26% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 475 tỷ đồng, tăng 30,99%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 2.223 tỷ đồng, tăng 25,26%; dịch vụ hỗ trợ vận tải kho bãi đạt 3 tỷ đồng, tăng 47,67%,…
8.2. Vận tải hành khách
- Khối lượng hành khách vận chuyển trong tháng ước đạt 1 triệu lượt hành khách, tăng 23,22% so với tháng trước, tăng 48,71% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 84 triệu lượt hành khách.km, tăng 25,64%, tăng 26,17%.
- Khối lượng hành khách vận chuyển ước thực hiện quý III đạt 3 triệu lượt hành khách, tăng 37,35% so với quý cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 219 triệu lượt hành khách.km, tăng 22,61%.
- Tính chung 9 tháng khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 9 triệu lượt hành khách, tăng 47,38% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 614 triệu lượt hành khách.km, tăng 18,02%.
8.3. Vận tải hàng hóa
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 2 triệu tấn, tăng 17,07% so với tháng trước, tăng 28,56% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 118 triệu tấn.km, tăng 14,53%, tăng 21,79%.
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước thực hiện quý III đạt 3 triệu tấn, tăng 37,35% so với quý cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 219 triệu tấn.km, tăng 22,61%.
- Tính chung trong 9 tháng, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 15 triệu tấn, tăng 24,39% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 934 triệu tấn.km, tăng 19,35%.
9. Công tác chuyển đổi số và bưu chính, viễn thông
9.1. Lĩnh vực chuyển đổi số
Với mục tiêu Chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, làm mục tiêu, động lực nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp một cách thực chất và hiệu quả; hướng tới việc hình thành công dân số, xã hội số. Đến nay, công tác chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã đạt được một số kết quả nổi bật sau:
- Tỉnh đã tổ chức Lễ phát động thi đua chuyển đổi số - Năm dữ liệu số Tuyên Quang năm 2023, nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh, thực hiện xây dựng Chính quyền số, phát triển Kinh tế số và Xã hội số.
- Đã ban hành Quyết định phê duyệt kết quả đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số năm 2022 của các cơ quan nhà nước và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh năm 2022. Kết quả thực hiện đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số đối với các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh được xác định trên 06 chỉ số chính (Nhận thức số; Thể chế số; Hạ tầng số; Nhân lực số; An toàn thông tin mạng; Hoạt động chuyển đổi số); cấp huyện được đánh giá trên 09 chỉ số chính chia làm 2 nhóm: Nhóm chỉ số nền tảng (Nhận thức số; Thể chế số; Hạ tầng số; Nhân lực số; An toàn thông tin mạng; Đô thị thông minh) và nhóm chỉ số hoạt động (Hoạt động chính quyền số; Hoạt động kinh tế số; Hoạt động xã hội số); cấp xã được đánh giá trên 06 chỉ số chính (Nhận thức số; Thể chế số; Hạ tầng số; Hoạt động chuyển đổi số; An toàn, an ninh mạng; Nhân lực số).
- Ra mắt nền tảng Chính quyền số tỉnh Tuyên Quang (Tuyên Quang ID) nhằm nâng cao năng lực hoạt động, cung cấp dịch vụ nghiệp vụ của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh đối với công dân, doanh nghiệp; thiết lập kênh tương tác đa chiều giữa chính quyền và người dân, doanh nghiệp một cách kịp thời, hiệu quả.
- Đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 169 điểm cầu của Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến của tỉnh đã kết nối thông suốt từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã phục vụ công tác chỉ đạo điều hành được thông suốt.
Hiện nay, có trên 20 sở, ban, ngành, 7 huyện, thành phố và 138 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến từ mức độ 2 đến mức độ 4 và có 1.876 dịch vụ hành chính công trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh Tuyên Quang phục vụ người dân và doanh nghiệp, 582 dịch vụ công mức độ 3, mức độ 4 đã được tích hợp trên Cổng dịch vụ công Quốc gia. Qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan và người dân và doanh nghiệp giải quyết các thủ tục hành chính.
- Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh Tuyên Quang hiện đang cung cấp 1.823 dịch vụ hành chính công trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh Tuyên Quang phục vụ người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong đó, số DVCTT một phần: 703 dịch vụ, đạt 38,57%; DVCTT toàn trình: 1.120 dịch vụ, đạt 61,43%.
9.2. Về Lĩnh vực Bưu chính - Viễn thông
- Toàn tỉnh hiện có hơn 20 doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau. Có 314 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì hoạt động phục vụ người dân và doanh nghiệp. 100% các xã có thư báo đến trong ngày.
- Các dịch vụ bưu chính phát triển mạnh như bưu phẩm, bưu kiện. Việc triển khai chuyển trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích đã đem lại việc làm cho doanh nghiệp bưu chính trên địa bàn.
- Đến tháng 9 năm 2023, trên toàn tỉnh có 1.323 vị trí lắp đặt trạm thu phát sóng BTS (1 vị trí lắp đặt nhiều loại trạm 2G, 3G, 4G). Đảm bảo gần 100% số thôn, bản, tổ nhân dân được phủ sóng điện thoại di động, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương.
- Các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh tăng cường, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong các dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh.
10. Về du lịch
Tỉnh đã tổ chức thành công các sự kiện quảng bá, thu hút khách du lịch đến với tỉnh như: Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang năm 2023 và trao "Giải thưởng phong cảnh thành phố Châu Á" cho "Quảng trường Nguyễn Tất Thành - Tinh hoa của núi rừng" và Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II - năm 2023; tham gia chương trình giới thiệu xúc tiến điểm đến du lịch 8 tỉnh Đông Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2023, xúc tiến điểm đến tại Hội nghị 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng tại Cần Thơ; hội nghị truyền thông về Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang và Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II - năm 2023 tại thành phố Hồ Chí Minh; chương trình Du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ XIV và Lễ hội Thành Tuyên năm 2023; liên hoan các Làng Văn hoá du lịch cộng đồng 6 tỉnh Việt Bắc,… với nhiều hoạt động quảng bá điểm đến của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng tập trung phát triển các sản phẩm du lịch, đặc biệt là các sản phẩm mới lạ, độc đáo. thu hút đầu tư của doanh nghiệp du lịch và phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù trong thời gian tới. Từ đó tạo ra những tour du lịch hấp dẫn, dịch vụ tối ưu, điểm đến mới lạ cho du khách.
Trong tháng 9, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 325.000 lượt khách du lịch; tổng thu từ khách du lịch đạt 445 tỷ đồng (nâng tổng số 9 tháng năm 2023, thu hút được 2.286.000 lượt khách du lịch đạt 91% kế hoạch, tăng 7,7% so với cùng kỳ; tổng thu từ khách du lịch đạt 2.687 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch, tăng 24% so với cùng kỳ).
II. LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI
1. Về lao động việc làm
- Giải quyết việc làm cho người lao động là mục tiêu hàng đầu trong công tác giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Do đó, trong thời gian qua, các cấp, các ngành, các địa phương của tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp có hiệu quả nhằm khuyến khích, hỗ trợ tạo sinh kế, việc làm cho người lao động, cụ thể: Hỗ trợ về vốn, khoa học kỹ thuật cho người dân phát triển sản xuất, kinh tế gia đình; chú trọng xây dựng hợp tác xã, mở rộng các mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ; duy trì xuất khẩu lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, giúp người lao động tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.
Trong 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã tạo việc làm cho 20.740 người, đạt 93,4% kế hoạch, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2022 (trong đó: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế tại tỉnh 12.920 người; lao động đi làm việc tại các tỉnh, thành phố trong nước 6.925 người; đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 895 người). Thực hiện kịp thời, đúng quy định các chế độ, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động. Duy trì thực hiện công tác công tác quản lý người lao động là người nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
- Về giáo dục nghề nghiệp: Tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục nghề nghiệp năm 2023, từ đầu năm đến nay các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh đào tạo 7.882 học viên, đạt 98,52% kế hoạch, trong đó: Trình độ cao đẳng 119 người, trung cấp 935 người, trình độ sơ cấp và đạo tạo dưới 3 tháng 6.828 người.
2. Đời sống dân cư
Trong 9 tháng năm 2023, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, giá các mặt hàng thiết yếu như: Giá bán lẻ điện điều chỉnh tăng, giá sách giáo khoa, mức thu học phí và các khoản thu dịch vụ tăng; giá các loại lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng tăng, dẫn đến chi phí sinh hoạt tăng, đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhiều hộ gia đình, đặc biệt là nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình, người dân dần thắt chặt chi tiêu, cắt giảm những khoản tiêu dùng không cần thiết.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và sản xuất đạt kế hoạch đề ra, đa số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và phát triển ổn định, không xảy ra tình trạng cắt giảm giờ làm, nghỉ việc, nghỉ luân phiên và chấm dứt hợp đồng với người lao động, đời sống của người lao động trong các công ty tiếp tục ổn định.
Các doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể đã quan tâm chăm lo Tết cho người lao động, đã phần nào giúp đời sống của những người hưởng lương trong dịp Tết được ổn định hơn. Mức thưởng bình quân cho người lao động trong các loại hình doanh nghiệp: Thưởng Tết Dương lịch 2023: Mức thưởng bình quân cho người lao động của doanh nghiệp có kế hoạch thưởng: 1.000.000/người; Thưởng Tết Nguyên đán Quý Mão 2023: Mức thưởng bình quân cho người lao động của doanh nghiệp có kế hoạch thưởng: 3.780.000đ/người.
Tình hình tiền lương, thu nhập của đa số cán bộ, công nhân, công chức, viên chức về cơ bản tiếp tục ổn định. Từ ngày 1/7/2023, mức lương cơ sở đã chính thức tăng từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng. Mức tăng lương cơ sở kỳ này được đánh giá là khá cao so với các đợt tăng trước.
Nhìn chung, đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang 9 tháng năm 2023, cơ bản ổn định và từng bước được cải thiện hơn, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dần dần được phục hồi và đi vào ổn định, người lao động có việc làm và thu nhập ổn định đã đảm bảo phần nào cho nhu cầu cuộc sống.
3. Công tác người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội
3.1. Công tác đối với người có công với cách mạng
Duy trì thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân người có công; đẩy mạnh thực hiện các phong trào, hoạt động "đền ơn, đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công; hỗ trợ, giúp đỡ gia đình người có công với cách mạng có khó khăn về nhà ở, từ đầu năm đến nay, các tổ chức cá nhân đã hỗ trợ làm mới và sửa chữa nhà ở cho 36 gia đình người có công với cách mạng, số tiền hỗ trợ 1.068 triệu đồng.
3.2. Công tác bảo trợ xã hội và phòng chống các tệ nạn xã hội
- Duy trì thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân người có công; đẩy mạnh thực hiện các phong trào, hoạt động "đền ơn, đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn". Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội, thường xuyên rà soát năm chắc tình hình đời sống nhân dân, kịp thời hỗ trợ các hộ gia đình, cá nhân gặp khó khăn do tai nạn rủi ro; duy trì chi trả trợ cấp thường xuyên cho trên 38.000 đối tượng bảo trợ xã hội với kinh phí trợ cấp xã hội hàng tháng trên 20 tỷ đồng. Trong thời gian giáp hạt năm 2023, các huyện đã hỗ trợ 5.240 hộ, 16.653 khẩu, 249.795kg gạo, kinh phí trên 3,7 tỷ đồng.
- Tăng cường công tác quản lý đối tượng cai nghiện; công tác điều trị, quản lý cai nghiện, tổ chức lao động sản xuất cho học viên phù hợp với điều kiện thực tế, kiên quyết xử lý nghiêm học viên lợi dụng tham gia lao động để sử dụng trái phép chất ma túy. Kết quả trong 9 tháng, Cơ sở cai nghiện đã tiếp nhận 90 học viên (Cai nghiện bắt buộc 84 học viên, cai nghiện tự nguyện 06 học viên); cấp giấy chứng nhận hoàn thành cai nghiện cho 58 học viên; thanh lý hợp đồng cai nghiện tự nguyên 02 học viên. Tại thời điểm báo cáo Cơ sở đang quản lý 169 học viên (có mặt 161 học viên; trốn cai 06 học viên; đi viện điều trị bệnh 02 học viên).
4. Hoạt động giáo dục và đào tạo
Năm học 2023 - 2024 là năm thứ 4 triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 với nhiều khó khăn, thách thức. Song với quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, tỉnh đang triển khai các giải pháp nhằm đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh. Thời gian qua, chất lượng giáo dục đại trà có bước phát triển đáng khích lệ; điểm trung bình kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 trung học phổ thông năm học 2023 - 2024 cao hơn so với năm học trước; điểm trung bình kỳ thi tốt nghiệp THPT của tỉnh năm 2023 xếp thứ 21/63 tỉnh, thành phố, xếp thứ 3/14 tỉnh khu vực miền núi phía Bắc. Chất lượng giáo dục mũi nhọn của tỉnh từng bước được nâng lên, năm 2023, tỉnh Tuyên Quang xếp thứ 23/63 tỉnh, thành phố về chất lượng giải học sinh giỏi quốc gia; có 01 dự án Khoa học kỹ thuật được Bộ Giáo dục và Đào tạo lựa chọn tham dự Hội thi Khoa học kỹ thuật quốc tế tại Hoa Kỳ và tại Kỳ thi Olympic Toán học quốc tế HKIMO (Hong Kong International Mathematical Olympiad), có 5 học sinh Trường THPT Chuyên Tuyên Quang đã xuất sắc đoạt được giải cao tại vòng quốc tế kỳ thi trên.
Ngay sau Lễ khai giảng năm học mới 2023 - 2024, các trường học trên địa bàn tỉnh đã đã bắt đầu chương trình học tập chính thức của năm học mới. Năm học 2023 - 2024 toàn tỉnh có 152 trường mầm non, 124 trường tiểu học, 149 trường THCS và 35 trường THPT với trên 228.000 học sinh các cấp. Việc ổn định nề nếp được các trường quan tâm thực hiện đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt, học tốt, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu và nhiều nhiệm vụ mới đề ra.
5. Hoạt động y tế
Từ đầu năm đến nay, tình hình dịch Covid-19 trong nước và trong tỉnh cơ bản đã ổn định, đời sống nhân dân đã trở lại bình thường; tỉnh tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ và các hướng dẫn của BộY tế trong phòng chống dịch Covid-19 và các dịch bệnh truyền nhiễm khác như: Sốt xuất huyết, tay chân miệng,... không để dịch bùng phát trở lại và hạn chế tối đa xảy ra nguy cơ dịch chồng dịch; chủ động giám sát, theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên địa bàn, sẵn sàng ứng phó với các tình huống có thể xảy ra của dịch bệnh. Tiếp tục đảm bảo thuốc, vắc xin, sinh phẩm, vật tư, hóa chất, trang thiết bị, nhân lực phục vụ công tác phòng, chống dịch.
- Trong 9 tháng trên địa bàn toàn tỉnh đã ghi nhận 1.597 ca mắc Covid-19 mới (số ca tháng 9 tính đến 15/9 là 22 ca), số ca tái dương tính là 2.212 bệnh nhân. Hiện đang điều trị 09 người tại cơ sở y tế và tại nhà, không có bệnh nhân nặng; tổng số bệnh nhân cộng dồn là: 162.822 người; số người tử vong 19 người. Tổng số mẫu đã lấy cộng dồn là: 508.762 mẫu.
- Về tình hình tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19: Tổng số cộng dồn tiêm tại tỉnh từ đợt 1 đến nay: 2.262.588 mũi tiêm; trong đó: mũi 01: 706.372 người; mũi 02: 695.987 người; mũi 03: 522.484 người; mũi 04: 258.545 người.
+ Tiêm cho người từ 18 tuổi trở lên tỷ lệ tiêm mũi 1 là100% (510.995 người còn 6.471 người chống chỉ định chưa tiêm); tiêm đủ 2 mũi là 99,7% (513.502người); có 79.200 người được tiêm bổ sung để hoàn thành liều cơ bản; Tỷ lệ tiêm mũi 3 là 90,8% (461.431 người); hoàn thành tiêm mũi 04 cho đối tượng ưu tiên, số người được tiêm mũi 04 là 258.545 người.
+ Tiêm cho trẻ từ 12 đến dưới 18 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt trên 99,1% (77.991 trẻ; tiêm đủ 02 mũi đạt 100% (78.799 trẻ), tiêm mũi 3 là 77,6% (61.053 trẻ) tỷ lệ tiêm mũi 3 cao nhất là Yên Sơn (97,7%) thấp nhất là Sơn Dương (69,6%).
+ Tiêm cho trẻ từ 05 đến dưới 12 tuổi: Tỷ lệ tiêm mũi 01 đạt 99,9% (117.386/117.461) các huyện, thành phố đạt trên 99%; tiêm 02 mũi là 88,3% (103.686 trẻ), hiện chưa có phản ứng phụ hoặc tai biến sẩy ra.
Về công tác khám, chữa bệnh: Tiếp tục thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về y tế; đổi mới, phát triển các kỹ thuật cao, kỹ thuật chuyên sâu trong khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế; tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ y tế chuyển biến rõ nét. Tổng số lượt khám bệnh trong 9 tháng đạt 839.347 lượt người. Trong đó: Bệnh viện tuyến tỉnh: 210.554 lượt, Trung tâm Y tế huyện: 312.483 lượt, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 36.372 lượt, Trạm Y tế xã, phường, thị trấn: 279.938 lượt. Công suất sử dụng giường bệnh tại Bệnh viện tuyến tỉnh: 118,5%, Trung tâm Y tế huyện: 93% và Bệnh viện Đa khoa khu vực: 67,2%. Ngày điều trị trung bình tại Bệnh viện tuyến tỉnh: 7,8 ngày, Trung tâm Y tế huyện: 5,8 ngày, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 5,8 ngày.
- Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) cũng đã được tỉnh triển khai bằng nhiều giải pháp như: Tăng cường công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng; triển khai công tác hậu kiểm chất lượng, giám sát các mối nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng ATVSTP trên địa bàn toàn tỉnh, qua đó kiểm tra, giám sát tại tại 3.760 lượt, đạt 77,2% kế hoạch; số cơ sở được kiểm tra: 1.954, xử lý 62 cơ sở vi phạm các quy định về ATVSTP; thẩm định và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATVSTP cho 111 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại các huyện, thành phố, đạt 86%.
Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã ghi nhận 06 vụ ngộ độc thực phẩm với 30 người mắc; 02 trường hợp tử vong qua điều tra nghĩ đến tử vong do uống cùng một loại rượu ngâm với rễ cây. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã lấy mẫu gửi Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, hiện tại chưa có kết quả xét nghiệm.
6. Hoạt động văn hoá - thể dục, thể thao
Tổ chức thành công các hoạt động, sự kiện văn hóa, nghệ thuật chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh, như: Chương trình Chào Xuân Quý Mão năm 2023; các hoạt động Khai mạc Không gian văn hóa Hồ Chí Minh kỷ niệm 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943 – 2023); khai mạc Hội báo Xuân Quý Mão và phát động Giải báo chí toàn quốc về Xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ VIII năm 2023; Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang và Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II - năm 2023; Chương trình du lịch "Qua những miền di sản Việt Bắc" lần thứ XIV và Lễ hội thành Tuyên năm 2023; tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
- Lĩnh vực thể dục, thể thao: Tổ chức thành công 11 giải thể thao cấp tỉnh; đăng cai tổ chức thành công Giải Vô địch Pencak Silat trẻ quốc gia năm 2023, Ban Tổ chức trao 72 bộ huy chương ở các nội dung cho các vận động viên10; đăng cai giải Vô địch các lứa tuổi trẻ Vật cổ điển, vật tự do quốc gia năm 2023, BTC đã trao 63 bộ huy chương cho các vận động viên có thành tích thi đấu xuất sắc ở các nội dung và các hạng cân; tham gia 14 giải thể thao toàn quốc, đạt 68 huy chương các loại (trong đó: 14 HCV, 25 HCB; 29 HCĐ); 13 vận động viên đạt cấp kiện tướng, 16 vận động viên đạt cấp I; phối hợp với Liên đoàn Quần vợt tổ chức Đại hội Liên đoàn Quần vợt tỉnh Tuyên Quang lần thứ III, nhiệm kỳ 2023 – 2028. Duy trì hoạt động 6 lớp đội tuyển năng khiếu với 30 vận động viên; 7 lớp đội tuyển trẻ với 68 vận động viên; 03 lớp đội tuyển tỉnh với 20 vận động viên.
7. Tình hình an toàn giao thông
Thực hiện đợt cao điểm bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trật tự xã hội trong dịp nghỉ lễ 2-9, khai giảng năm học mới. Trong 4 ngày nghỉ, lực lượng cảnh sát giao thông, cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh đã tăng cường tuần tra, kiểm soát phát hiện, xử lý nghiêm những lỗi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông như: Lái xe khi trong cơ thể có chất ma túy, vi phạm nồng độ cồn, chạy quá tốc độ. Kết quả đã phát hiện, xử lý 277 trường hợp vi phạm (tạm giữ 11 xe ô tô, 144 xe mô tô, 234 bộ giấy tờ). Các lỗi vi phạm chủ yếu gồm: 97 trường hợp vi phạm nồng độ cồn, 66 trường hợp không có giấy phép lái xe, 5 trường hợp chở quá tải trọng, 42 trường hợp chạy quá tốc độ quy định, còn lại là các vi phạm khác. Tổng số tiền phạt ước tính gần 540 triệu đồng.
- Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 03 người và làm bị thương 08 người. Số vụ tai nạn và số người chết giữ nguyên so với tháng trước, số người bị thương giảm 33,33%. So với cùng kỳ năm trước, tăng 166,67% số vụ, tăng 50% số người chết, số người bị thương tăng 700%.
- Trong quý III, toàn tỉnh đã ghi nhận 25 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 08 người và làm bị thương 21 người. So với quý cùng kỳ năm trước, tăng 25% số vụ, tăng 33,33% số người chết, số người bị thương tăng 31,25%.
- Tính chung 9 tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 61 vụ tai nạn giao thông, làm 20 người chết và làm 48 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước tăng 7,02% số vụ, tăng 5,26% số người chết, số người bị thương giữ nguyên.
8. Thiệt hại do thiên tai, phòng chống cháy, nổ
8.1. Về thiên tai
Từ đầu năm đến nay, tình hình thiên tai tiếp tục diễn biến cực đoan, bất thường trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 11 đợt thiên tai. Mưa lớn kèm theo dông lốc trên diện rộng đã gây ra những thiệt hại về người và tài sản, làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân, cụ thể như sau:
- Thiệt hại về người và nhà ở: 01 người bị thương; trên 380 nhà bị hư hỏng, thiệt hại (trong đó 01 nhà hỏng hoàn toàn).
- Thiệt hại về nông lâm nghiệp, thủy sản: trên 84 ha lúa, 642,88 ha ngô, rau màu bị ảnh hưởng, 2,15 ha cây ăn quả bị gãy đổ, 27,6 ha cây lâm nghiệp bị ảnh hưởng; 06 con bò, 05 con lợn và 1.060 con gia cầm bị thiệt hại; 7,08 ha ao hồ bị tràn bờ,…
- Thiệt hại khác: 02 công trình thuỷ lợi bị hư hỏng, 137 m kênh mương bị sạt, trôi, hư hỏng, 9.336 m3 đất đá sạt lở gây hư hỏng đường giao thông, 01 tuyến đường dây 35 Kv và 15 cột điện bị hư hỏng; 04 điểm trường bị hư hỏng, tốc mái và nhiều thiệt hại khác,…
Ước tính tổng giá trị thiệt hại trên 3.248,9 triệu đồng.
Sau khi thiên tai xảy ra, chính quyền địa phương đã huy động lực lượng tại chỗ hỗ trợ các hộ dân bị ảnh hưởng nhanh chóng khắc phục hậu quả, sửa chữa tạm thời; triển khai những biện pháp giúp đỡ kịp thời để cuộc sống người dân sớm trở lại ổn định.
8.2. Về cháy nổ
Trong tháng, toàn tình không xảy ra vụ cháy, nổ nào. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ cháy làm 05 người bị thương, thiệt hại ước tính hơn 2.390 triệu đồng.
Ngay sau khi xảy ra các vụ việc cháy, lãnh đạo Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành nhanh chóng xuống địa bàn có thiệt hại, động viên người chịu thiệt hại và triển khai nhanh các giải pháp khắc phục thiệt hại nhằm sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân.
9. Đánh giá chung
Trong 9 tháng năm 2023, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức; tuy nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn duy trì đà tăng trưởng và đạt được nhiều kết quả tích cực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, chỉ số giá trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm, thanh toán không dùng tiền mặt đạt kết quả tích cực, các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu nguồn cung vẫn đầy đủ; số người có việc làm tăng lên, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, thu nhập của người dân cải thiện, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện;... Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, thách thức: Một số sản phẩm công nghiệp tăng thấp hơn cùng kỳ; tiến độ giải ngân vôn đầu tư công còn chậm, giá vật liệu xây dựng tăng mạnh đã ảnh hưởng đến chi phí đầu tư của nhiều dự án, công trình và thị trường bất động sản; tình hình thiên tai và những diễn biến bất thường của thời tiết.
10. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 3 tháng cuối năm 2023
Một là, tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, tháo gỡ kịp thời các khó khăn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu đạt mục tiêu giải ngân 98% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 đảm bảo đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của tỉnh; triển khai thi công giai đoạn 2 dự án đường cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ kết nối với cao tốc Nội Bài - Lào Cai và hoàn thành toàn bộ dự án trong năm 2023; hoàn thiện các thủ tục công tác chuẩn bị đầu tư để khởi công cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang đẩy nhanh dự án đường trục phát triển đô thị từ thành phố Tuyên Quang đi trung tâm huyện Yên Sơn, đường từ thành phố Tuyên Quang đi suối khoáng Mỹ Lâm, Dự án cầu Xuân Vân, cầu Bạch Xa, dự án Flamingo Tân Trào, xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Trường Trung học phổ thông Chuyên tại địa điểm mới... và nhiều công trình, dự án quan trọng khác,... và các dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; các công trình thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Tuyên Quang,... nhằm kết nối liên vùng, đồng bộ, theo hướng hiện đại, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Hai là, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh; triển khai hiệu quả các giải pháp hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế, hỗ trợ tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp được tiếp cận thuận lợi nguồn vốn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh.
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tập trung phát triển ba trụ cột kinh tế và hình thành 4 cực tăng trưởng gắn với tiềm năng thế mạnh vùng; tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp phát triển công nghiệp, xây dựng với trọng tâm vào các ngành mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế như: Công nghiệp chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da giày, điện tử,… đôn đốc tiến độ và kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án công nghiệp trọng điểm, để các dự án sớm hoàn thành đầu tư đưa vào sản xuất, nhằm gia tăng sản lượng và đóng góp thêm các sản phẩm công nghiệp mới và có phương án bù đắp các sản phẩm thiếu hụt, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu sản xuất công nghiệp theo kế hoạch; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa chủ lực của địa phương.
Bốn là, tăng cường các biện pháp siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách, đẩy mạnh công tác chống thất thu, trốn thuế, chống gian lận thương mại, rà soát, những nguồn thu còn tiềm năng, nguồn thu chưa khai thác hết, còn dư địa để tổ chức thực hiện, khai thác tăng thu, bù đắp các khoản hụt thu; khẩn trương triển khai thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất theo kế hoạch được giao, phấn đấu hoàn thành dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ chi đã bố trí trong dự toán ngân sách tỉnh giao.
Năm là, triển khai đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ về các gói hỗ trợ hồi phục kinh tế như: Hỗ trợ lãi suất 2%/năm thuế giá trị gia tăng đối với tất cả nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất giá trị gia tăng 10% xuống còn 8%, cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; giảm thuế và gia hạn thời gian nộp thuế; thực hiện tốt công tác hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp,... Đây là những giải pháp rất cần thiết, là nguồn lực đáng kể để tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, nhằm nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước.
Sáu là, tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động xây dựng các phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ nhắm hạn chế tối thiểu thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra. Thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội, lao động, việc làm, công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ.
CỤC THỐNG KÊ TUYÊN QUANG
Tin tức khác
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2022 tỉnh Tuyên Quang
(28/09/2022)
THÔNG BÁO
Nghị định số 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023 của Chính p...
Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính ...
Quyết định số 349/QĐ-UBND ngày 01/4/2022 của UBND tỉnh về vi...
Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 của Bộ trưởng Bộ T...
Lịch tiếp công dân
Văn bản số 2068/UBND - THVX ngày 22/5/2023 của Ủy ban n...
Quyết định 43 về Điều chỉnh thời gian công bố lịch phổ biến ...
Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu ...
Lich phổ biến thông tin thống kê năm 2024
Quyết định số 484/QĐ-UBND ngày 12/8/2022 của UBND tỉnh Về vi...
Chỉ thị số 07/CT-TTg Về việc tăng cường công tác thống kê Nh...
Quyết định số 648/QĐ-TCTK ngày 16/6/2022 của Tổng cục Thống...
Quyết định số 1228/QĐ-UBND ngày 29/8/2022 của UBND tỉnh về v...
Văn bản số 1695/UBND - TH ngày 01/6/2022 của UBND tỉnh Về vi...
ẢNH HOẠT ĐỘNG
Hoạt động ngành
Thiên nhiên Tuyên Quang
Tổng điều tra
Điều tra thường xuyên
TRIỂN KHAI CÔNG TÁC
Phòng Thống kê Tổng hợp
Phòng Thống kê Kinh tế
Phòng Thống kê Xã Hội
Phòng Thu thập Thông tin Thống kê
Phòng Tổ chức - Hành chính
LIÊN KẾT WEBSITE